1. Lao động nữ không tham gia bảo hiểm xã hội hoặc tham gia nhưng chưa đủ thời gian quy định
Trường hợp lao động nữ không tham gia bảo hiểm xã hội:
Theo Điều 31 của Luật Bảo hiểm xã hội 2014, để có quyền hưởng chế độ thai sản, người lao động cần phải đáp ứng yêu cầu về thời gian tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc như sau:
- Đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc trong thời gian tối thiểu 6 tháng trong vòng 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con:
Điều này áp dụng đối với các nhóm đối tượng sau đây:
+ Lao động nữ sinh con: Người lao động nữ phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc liên tục ít nhất 6 tháng trong vòng 12 tháng trước khi sinh để đảm bảo quyền lợi thai sản.
+ Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ: Cả hai đối tượng này cũng phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc trong ít nhất 6 tháng trong vòng 12 tháng trước khi sinh con.
+ Người lao động nhận nuôi con dưới 6 tháng tuổi: Những người lao động nhận nuôi con dưới 6 tháng tuổi cũng phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc ít nhất 6 tháng trong vòng 12 tháng trước khi nhận nuôi để đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản.
- Đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc ít nhất 3 tháng trong vòng 12 tháng trước khi sinh đối với lao động nữ phải nghỉ việc dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám chữa bệnh có thẩm quyền:
Lao động nữ mang thai và phải nghỉ việc dưỡng thai theo yêu cầu của cơ sở khám chữa bệnh có thẩm quyền, nếu không thể tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đủ 6 tháng, thì vẫn có thể chỉ cần đóng đủ 3 tháng trong vòng 12 tháng trước khi sinh và vẫn đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản.
Lưu ý: Những lao động nữ đáp ứng một trong hai điều kiện trên, nếu chấm dứt hợp đồng lao động hoặc nghỉ việc trước thời điểm sinh con hoặc nhận con nuôi dưới 6 tháng tuổi, vẫn có quyền hưởng chế độ thai sản theo quy định pháp luật. Điều này giúp bảo vệ quyền lợi thai sản của người lao động, ngay cả khi họ không còn làm việc vào thời điểm sinh con hoặc nhận con nuôi.
Do đó, lao động nữ không tham gia bảo hiểm xã hội sẽ không được hưởng bất kỳ chế độ nào từ bảo hiểm xã hội, bao gồm cả chế độ thai sản.
Lao động nữ tham gia bảo hiểm xã hội nhưng chưa đủ thời gian yêu cầu
Theo Điều 31 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc sẽ không đủ điều kiện để nhận chế độ thai sản khi sinh con nếu không đáp ứng yêu cầu về thời gian đóng bảo hiểm. Quy định này nhằm đảm bảo rằng chỉ những người lao động đã đóng góp đáng kể và liên tục vào quỹ bảo hiểm xã hội mới được hưởng quyền lợi thai sản. Các trường hợp không đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản bao gồm:
- Lao động nữ sinh con nhưng không đủ thời gian đóng bảo hiểm:
Lao động nữ sinh con nhưng chỉ tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc dưới 06 tháng trong vòng 12 tháng trước khi sinh sẽ không đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản. Để được hưởng quyền lợi này, lao động nữ phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc và đóng đủ ít nhất 06 tháng trong 12 tháng trước khi sinh con.
- Lao động nữ mang thai phải nghỉ dưỡng thai theo chỉ định của bác sĩ nhưng chưa đóng đủ bảo hiểm:
Lao động nữ mang thai phải nghỉ dưỡng thai theo chỉ định của bác sĩ nhưng không có đủ thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc trong 12 tháng cũng sẽ không được giải quyết chế độ thai sản. Điều này đảm bảo rằng lao động nữ nghỉ dưỡng thai vì lý do sức khỏe cũng phải có sự đóng góp liên tục vào quỹ bảo hiểm.
- Lao động nữ nghỉ dưỡng thai nhưng không đóng bảo hiểm xã hội liên tục:
Lao động nữ mang thai phải nghỉ dưỡng thai theo chỉ định của bác sĩ và đã tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đủ 12 tháng trở lên, nhưng không hoàn thành đủ 03 tháng đóng bảo hiểm trong 12 tháng trước khi sinh con, sẽ không đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản. Điều này chỉ ra rằng mặc dù tổng thời gian đóng bảo hiểm đủ lâu, nhưng sự liên tục trong việc đóng bảo hiểm trong năm trước khi sinh con vẫn là yêu cầu bắt buộc.
- Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ:
Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ nếu không đóng đủ 06 tháng bảo hiểm xã hội bắt buộc trong vòng 12 tháng trước khi sinh con sẽ không đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản. Quy định này được đưa ra nhằm bảo vệ quyền lợi của cả lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ trong quá trình này.
- Người lao động nhận nuôi con dưới 06 tháng tuổi:
Người lao động nhận con nuôi dưới 06 tháng tuổi và không tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đủ 06 tháng trong vòng 12 tháng trước khi nhận con nuôi sẽ không đủ điều kiện để hưởng chế độ thai sản. Điều này đảm bảo rằng quyền lợi thai sản được áp dụng không chỉ cho lao động nữ sinh con mà còn cho người lao động nhận nuôi con nuôi, miễn là họ đáp ứng các yêu cầu về thời gian đóng bảo hiểm.
2. Một số trường hợp khác
Căn cứ theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, người lao động tham gia bảo hiểm xã hội sẽ không đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện:
- Theo Điều 4 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, chế độ thai sản chỉ áp dụng đối với những người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Hiện tại, bảo hiểm xã hội tự nguyện chỉ bao gồm hai chế độ là chế độ hưu trí và chế độ tử tuất. Vì vậy, những người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện sẽ không được hưởng chế độ thai sản. Điều này là một hạn chế đáng kể đối với lao động tự do hoặc những người làm việc trong môi trường không có hợp đồng lao động chính thức.
Trong bản dự thảo sửa đổi mới nhất của Luật Bảo hiểm xã hội, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã đề xuất mở rộng chế độ thai sản để áp dụng cho cả những người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Cụ thể, dự thảo quy định rằng lao động nữ tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện với thời gian đóng từ 06 tháng trở lên trong vòng 12 tháng trước khi sinh con sẽ được nhận trợ cấp thai sản. Mức trợ cấp dự kiến là 03 triệu đồng cho mỗi con sinh ra và sẽ được chi trả một lần cho người lao động.
Công ty nợ tiền bảo hiểm xã hội:
Theo các quy định pháp luật hiện hành, người lao động sẽ đủ điều kiện nhận chế độ thai sản nếu có thời gian đóng bảo hiểm xã hội đủ 06 tháng trở lên trong 12 tháng trước khi sinh con.
Bên cạnh đó, tại Khoản 72 Điều 1 của Quyết định 505/QĐ-BHXH năm 2020, có quy định về việc giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội đối với trường hợp đơn vị nợ tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), bảo hiểm tai nạn lao động (BHTNLĐ), và bảo hiểm bệnh nghề nghiệp (BNN), cụ thể như sau:
- Đối với các đơn vị nợ tiền đóng BHXH, BHTN, BHTNLĐ, BNN, nếu người lao động đáp ứng đủ điều kiện hưởng BHXH hoặc đã chấm dứt hợp đồng lao động (HĐLĐ) hoặc hợp đồng làm việc (HĐLV), đơn vị có nghĩa vụ phải thanh toán đầy đủ BHXH, BHTN, BHTNLĐ, BNN, bao gồm cả lãi suất chậm đóng theo quy định. Cơ quan bảo hiểm xã hội sẽ tiến hành xác nhận sổ bảo hiểm xã hội và giải quyết kịp thời các chế độ BHXH, BHTN cho người lao động.
- Trong trường hợp đơn vị chưa đóng đầy đủ, cơ quan bảo hiểm xã hội (BHXH) sẽ xác nhận sổ bảo hiểm xã hội (BHXH) cho đến thời điểm mà đơn vị đã hoàn tất việc đóng BHXH, bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), bảo hiểm tai nạn lao động (BHTNLĐ), và bảo hiểm bệnh nghề nghiệp (BNN). Sau khi thu hồi xong khoản tiền còn nợ, cơ quan BHXH sẽ bổ sung xác nhận trên sổ BHXH.
Khi công ty nợ tiền bảo hiểm và chưa thể hoàn tất việc đóng bảo hiểm khi giải quyết chế độ cho người lao động, cơ quan BHXH sẽ xác nhận sổ BHXH đến thời điểm mà đơn vị đã đóng BHXH, BHTN, BHTNLĐ, BNN. Trách nhiệm nợ bảo hiểm thuộc về đơn vị sử dụng lao động, do đó, nếu người lao động đã đáp ứng đủ các điều kiện pháp lý, họ có quyền yêu cầu công ty giải quyết chế độ thai sản theo đúng quy định của pháp luật. Điều này bảo vệ quyền lợi của người lao động, không để ảnh hưởng bởi sự chậm trễ hoặc thiếu trách nhiệm từ phía đơn vị sử dụng lao động.