Khái niệm về pháp chế tư sản được hiểu như thế nào?
Pháp chế tư sản thể hiện qua việc tôn trọng và thực thi các quy định của pháp luật tư bản xã hội, hay nói cách khác, đó là sự tuân thủ của công dân, các tổ chức, và các cơ quan đối với các quy định pháp lý hiện hành.
Những yêu cầu cần có để xây dựng và duy trì pháp chế tư sản.
- Thứ nhất, hiến pháp phải có giá trị pháp lý tối cao.
- Thứ hai, công dân phải hoàn toàn tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành.
Các nội dung của pháp chế tư sản
Pháp chế tư sản, theo cách hiểu này, bao gồm các nội dung chủ yếu như sau:
1) Đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp. Để thực thi nguyên tắc này, các nhà nước tư sản thành lập các cơ quan như toà án hiến pháp (hoặc hội đồng bảo hiến) để kiểm tra tính hợp hiến của các luật và văn bản do tổng thống hoặc Chính phủ ban hành (ví dụ: Italia, Đức, Pháp). Tại Hoa Kỳ, các cơ quan tư pháp có quyền giám sát tính hợp hiến của các văn bản pháp luật, và Tối cao pháp viện có quyền tuyên bố một đạo luật vi hiến và làm vô hiệu đạo luật đó.
2) Các cơ quan nhà nước, quan chức và công chức nhà nước đều phải chịu sự giám sát của pháp luật. Hệ thống cơ quan nhà nước có các cơ chế giám sát từ cả bên trong lẫn bên ngoài.
3) Mọi công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật. Để xử lý các hành vi vi phạm, nhà nước tư sản đã thiết lập một hệ thống toà án độc lập với cơ quan lập pháp và hành pháp. Các thẩm phán thường được bổ nhiệm suốt đời và chỉ có thể bị bãi nhiệm vì lý do sức khoẻ hoặc vi phạm pháp luật. Ngoài ra, nhà nước tư sản còn có lực lượng cảnh sát chuyên nghiệp, trang bị đầy đủ công cụ hiện đại để thực thi pháp luật khi cần thiết.
Biểu hiện của pháp chế tư sản.
Lý luận về pháp chế tư sản.
Ý nghĩa của pháp chế tư sản.
Pháp chế tư sản ra đời là một bước tiến quan trọng trong việc tổ chức và quản lý xã hội một cách trật tự và an toàn, phục vụ trực tiếp cho lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản cầm quyền. Đồng thời, pháp chế tư sản cũng có tác dụng tích cực trong việc bảo vệ các quyền cơ bản của công dân. Cuộc đấu tranh để thực hiện pháp chế đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc đấu tranh bảo vệ các quyền dân sinh và dân chủ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là yếu tố quyết định đảm bảo chính trị, góp phần xây dựng thành công nền dân chủ và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Lãnh đạo duy nhất của Đảng bảo đảm tính định hướng và bản chất xã hội chủ nghĩa của nền dân chủ, vì đường lối chính trị của Đảng dẫn dắt dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội, nơi quyền dân chủ của nhân dân được phát huy tối đa. Sự bảo đảm này càng được khẳng định bởi mục tiêu cao nhất của Đảng: vì lợi ích tối cao của nhân dân, Tổ quốc và dân tộc. Chỉ khi quyền lực nằm trong tay giai cấp tiến bộ và cách mạng, đại diện cho toàn xã hội, không mưu cầu lợi ích riêng của giai cấp hoặc nhóm người nào, mà là của giai cấp công nhân - với Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong, thì dân chủ mới thực sự được thực hành rộng rãi. Nếu không bảo đảm sự thống trị chính trị của giai cấp vô sản (hợp tác với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức), sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thì nhân dân sẽ không có quyền lực thực sự và nền dân chủ sẽ không được bảo vệ. Điều này cũng đúng với quá trình xây dựng nền pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Pháp luật là công cụ mạnh mẽ nhất để thể hiện quyền lực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, giúp xử lý và trừng phạt nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại và nguy hiểm cho cộng đồng, xã hội và chế độ. Bản chất và nguyên tắc pháp quyền, pháp chế mà Đảng ta lãnh đạo xây dựng không chỉ phản ánh ý chí và mục tiêu chính trị của Đảng, mà còn thể hiện các giá trị tiến bộ, cách mạng của hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa và nguyện vọng, quyền lợi chính đáng của nhân dân. Đây là nền pháp quyền nhân văn, vì con người, được toàn dân chấp nhận và thực hiện với tinh thần trách nhiệm và lương tâm, không còn vì “sợ hãi” quyền lực mà ngày càng phát triển thành một ý thức tuân thủ pháp luật tự giác và tạo ra một văn hóa thượng tôn pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ và kỷ cương trong Đảng là yếu tố trung tâm và có ý nghĩa quyết định trong việc thực hiện dân chủ và kỷ cương trong hệ thống chính trị và toàn xã hội. Nếu thiếu dân chủ nội bộ, Đảng sẽ trở nên mờ nhạt và mất đi tính trong sáng trong sinh hoạt của mình, từ đó nguyên tắc tập trung dân chủ không còn tạo ra sức mạnh của Đảng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo. Một đảng duy nhất cầm quyền có thể dẫn đến nguy cơ chủ quan, tự mãn và quan liêu, làm xa rời nhân dân. Khi Đảng thiếu dân chủ, thì dân chủ trong xã hội và với nhân dân cũng sẽ bị ảnh hưởng. Do đó, ngoài việc đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng, việc tạo ra một Đảng thực sự là biểu tượng của dân chủ và kỷ cương là yếu tố then chốt để phát triển dân chủ và pháp chế trong xã hội. Đảng phải cầm quyền vì dân, cầm quyền một cách dân chủ, khoa học và theo pháp luật.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền tảng để bảo đảm kinh tế dân chủ và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của nền kinh tế này không chỉ tạo ra cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội mà còn thúc đẩy sự hoàn thiện các yếu tố xã hội khác, bao gồm dân chủ và pháp luật. Một nền dân chủ thực sự không thể tồn tại trên nền tảng của một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, với đời sống của người dân ở mức thấp. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là môi trường thích hợp để phát triển dân chủ thực chất, loại bỏ dân chủ hình thức, bắt đầu từ dân chủ hóa kinh tế và mở rộng dân chủ trên các lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội và tư tưởng. Chỉ khi có nền dân chủ thực sự trên cơ sở một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mới có thể khắc phục được bản chất tàn nhẫn của lợi nhuận và quy luật bóc lột giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản.
Định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam phải gắn liền với việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Điều này không thể tách rời khỏi các chức năng kinh tế và xã hội của Nhà nước, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền. Nhà nước cần thúc đẩy quá trình dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế, khuyến khích quyền làm chủ kinh tế của mọi thành phần kinh tế, phát huy tính sáng tạo và năng lực của tất cả các thành viên trong xã hội để tạo ra của cải vật chất. Đồng thời, Nhà nước phải sử dụng nguồn lực kinh tế để phát triển toàn diện đời sống vật chất, tinh thần, học vấn và đạo đức của con người xã hội chủ nghĩa, từ đó phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Kinh tế phát triển phải đi đôi với văn hóa, với việc tôn trọng quy luật kinh tế trong phân phối lao động và điều tiết thu nhập qua phúc lợi xã hội, tạo dựng một xã hội công bằng.
Mở rộng dân chủ kinh tế đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế và tăng cường hiệu lực điều chỉnh pháp luật để bảo đảm mọi chủ thể kinh tế có quyền và nghĩa vụ bình đẳng trước pháp luật. Điều này giúp tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng, lành mạnh, tôn trọng các quy luật của nền kinh tế thị trường và khắc phục những khuyết tật của thị trường. Mở rộng dân chủ trong kinh tế phải gắn chặt với kỷ luật và kỷ cương, loại bỏ mọi nguy cơ lệch lạc trong phát triển kinh tế. Một ví dụ là việc phát triển kinh tế tư nhân như một động lực quan trọng không thể làm mất đi vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế của đất nước ngày càng chú trọng vào chất lượng tăng trưởng, phát triển theo chiều sâu và hoàn thiện hệ thống thể chế phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện đại, đầy đủ và hội nhập. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2045, Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia phát triển, có thu nhập cao, là nhiệm vụ đầy thách thức. Tuy nhiên, đây là những định hướng phát triển quan trọng, tạo nền tảng vật chất để nâng cao đời sống, trình độ dân trí, văn hóa dân chủ và văn hóa pháp lý của người dân, đồng thời là điều kiện để phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền với nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Khi nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và ổn định, sẽ là cơ sở vững chắc để các cá nhân trong xã hội thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ dân chủ, đồng thời giảm thiểu nguyên nhân của nhiều hành vi vi phạm pháp luật.
Đảm bảo chính trị là yếu tố quyết định, trong khi đảm bảo kinh tế là nền tảng cơ bản cho các yếu tố khác của nền dân chủ và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ngoài đảm bảo về chính trị và kinh tế, nền dân chủ và pháp chế xã hội chủ nghĩa còn phụ thuộc vào các yếu tố pháp lý và xã hội. Hệ thống các điều kiện bảo đảm cho dân chủ và pháp chế xã hội chủ nghĩa luôn trong trạng thái phát triển liên tục và không ngừng được củng cố, mở rộng qua từng bước phát triển trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam.