1. Thi hành án dân sự là gì?
Thi hành án dân sự bao gồm các hoạt động của cơ quan thi hành án, các bên liên quan như người được thi hành án, người phải thi hành án, và các tổ chức, cá nhân khác tham gia vào việc thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án.
Đây là quá trình thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án về các lĩnh vực: dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế; quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp; các quyết định về tài sản trong bản án hành chính, quyết định dân sự trong bản án, các quyết định hình sự và các bản án khác theo quy định của pháp luật.
2. Định nghĩa về thi hành án dân sự điển hình là gì?
3. Thi hành án dân sự liên quan đến tài sản bảo đảm
Khi xảy ra tranh chấp về nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng, nếu đã được giải quyết qua thương lượng, hòa giải hoặc có phán quyết của Tòa án hoặc Trọng tài, nhưng bên có nghĩa vụ không đủ khả năng tài chính để thực hiện, việc thi hành án sẽ gặp nhiều khó khăn trên thực tế.
Trong các vụ tranh chấp có tài sản bảo đảm, khả năng giải quyết thường thuận lợi hơn. Tuy nhiên, thực tế vẫn có nhiều nguyên nhân gây ra sự trì trệ hoặc không thể thi hành án liên quan đến tài sản bảo đảm. Các nguyên nhân chính có thể chia thành ba nhóm: do quy định pháp luật, năng lực của cơ quan thi hành án, và hành vi chây ỳ hoặc chống đối từ người phải thi hành án.
- Trong trường hợp thi hành án cần cưỡng chế giao nhà, là nơi ở duy nhất của người phải thi hành án cho người mua tài sản qua đấu giá, nếu sau khi thanh toán các nghĩa vụ thi hành án mà người phải thi hành án không còn đủ khả năng tài chính để thuê nhà hoặc tạo lập nơi ở mới, thì trước khi thực hiện chi trả cho người được thi hành án, Chấp hành viên sẽ trích một khoản từ số tiền bán tài sản để người phải thi hành án có thể thuê nhà với giá thuê trung bình tại địa phương trong vòng 01 năm.
Vì vậy, bên nhận tài sản bảo đảm phải chịu trách nhiệm về việc lo nơi ăn chốn ở cho bên thế chấp (bên có nghĩa vụ trả nợ). Nếu nhà ở được phát mại có giá trị thấp mà lại phải thuê nhà trong vòng một năm, điều này đồng nghĩa với việc gần như không thể thu hồi được vốn. Thực tế, trách nhiệm này phải thuộc về Nhà nước.
- Người có quyền thu nợ thông qua thi hành án, tức là người được thi hành án, luôn phải nộp phí thi hành án là 3% (ba phần trăm) trên số tiền hoặc giá trị tài sản thực nhận, nhưng không vượt quá 200 triệu đồng cho mỗi đơn yêu cầu thi hành án (tức là thấp hơn 3% đối với số tiền trên 5 tỷ đồng). Điều này có nghĩa là dù bên nợ có đủ khả năng thanh toán và tài sản bảo đảm có giá trị cao, người được thi hành án cũng không bao giờ thu được đủ số tiền nợ.
- Quy định về lãi suất chậm thi hành án hiện nay chưa hợp lý, có sự chênh lệch lớn về mức lãi suất chậm thi hành án, dẫn đến tình trạng bế tắc. Án lệ số 08/2016/AL đã hướng dẫn cách tính lãi chậm thanh toán trong các tranh chấp hợp đồng tín dụng như sau: 'Kể từ ngày sau ngày xét xử sơ thẩm, khách hàng vay vẫn phải chịu khoản lãi quá hạn đối với số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất đã thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong. Nếu hợp đồng tín dụng có thỏa thuận điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng kỳ của ngân hàng cho vay, mức lãi suất khách hàng vay phải thanh toán cho ngân hàng cũng sẽ được điều chỉnh theo quyết định của Toà án.'
Do đó, sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, nếu thi hành án bị chậm trễ, khách hàng vay vẫn phải tiếp tục trả lãi theo mức lãi suất đã thỏa thuận với tổ chức tín dụng. Điều này là không hợp lý, vì khi bản án đã có hiệu lực pháp luật, không còn hợp đồng hay thỏa thuận nào giữa các bên, chỉ còn việc thi hành bản án theo phán quyết của Toà án. Khi đó, không thể căn cứ vào lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng và càng không thể áp dụng mức lãi suất điều chỉnh. Hơn nữa, sự biến động quá lớn của mức lãi suất này, có thể dao động từ 7,5%/năm đối với các khoản vay hỗ trợ mua nhà cho người thu nhập thấp, đến 105%/năm đối với các khoản vay tiêu dùng, có thể gây ra tình trạng bế tắc pháp lý nếu các bên không đạt được thỏa thuận.
- Mặc dù các hợp đồng cho vay hợp pháp giữa các tổ chức tín dụng đều giống nhau, nhưng lại chỉ áp dụng mức lãi suất chậm trả đối với các tổ chức tín dụng. Trong khi đó, hợp đồng cho vay của các tổ chức và cá nhân khác lại chịu mức lãi suất chậm trả theo Bộ luật Dân sự, với mức lãi suất cơ bản là 9%/năm theo Bộ luật Dân sự năm 2005 và 10%/năm theo Bộ luật Dân sự năm 2015. Thêm vào đó, với thời gian xét xử kéo dài và cách tính lãi suất chậm trả như vậy, đôi khi việc chậm trả và phải chịu lãi suất quá hạn lại có lợi hơn việc thanh toán đúng hạn. Điều này vô tình khuyến khích bên phải thi hành án kéo dài thời gian thi hành án, không tự nguyện thực hiện.
- Trừ một số trường hợp ngoại lệ đối với các tổ chức tín dụng, nhìn chung, khi bán và xử lý tài sản bảo đảm, vẫn phải nộp đầy đủ các loại thuế, phí và lệ phí liên quan đến việc chuyển nhượng quyền. Do đó, các chủ nợ, đặc biệt là tổ chức tín dụng, thường không thu đủ số nợ dù giá trị tài sản bảo đảm cao hơn khoản nợ. Ví dụ, nếu bán một tòa nhà tại phố Trần Hưng Đạo, Hà Nội để thu hồi nợ trong vụ án hình sự tại Ngân hàng G, chủ nợ có thể phải trả các khoản thuế lên tới vài trăm tỷ đồng, chiếm một phần lớn trong tổng giá trị tài sản.
- Cơ quan thi hành án thường gặp phải nhiều khó khăn, thậm chí bế tắc khi xử lý những trường hợp tài sản bảo đảm không hoàn toàn khớp với những gì được ghi trong phán quyết của Toà án hoặc Trọng tài, do không được ghi nhận trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất, hoặc có sự thay đổi do sơ suất hoặc cố ý. Khó khăn này cũng thường xuất hiện trong quá trình giải quyết tranh chấp trước đó, đặc biệt khi bên bảo đảm hoặc bên phải thi hành án tạo ra các tình huống giả tạo liên quan đến tranh chấp, việc thuê, sử dụng nhà đất.
- Đối với tài sản đã được cầm cố, thế chấp hợp pháp, khi kết quả xác minh tại thời điểm thi hành án cho thấy tài sản có giá trị bằng hoặc nhỏ hơn nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng cầm cố, thế chấp, Chấp hành viên phải thông báo bằng văn bản cho người nhận cầm cố, thế chấp về nghĩa vụ của người phải thi hành án. Đồng thời yêu cầu khi thanh toán hết nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc khi xử lý tài sản cầm cố, thế chấp phải thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự. Cơ quan thi hành án dân sự sẽ kê biên tài sản sau khi đã được giải chấp hoặc thu phần tiền còn lại từ việc xử lý tài sản để thanh toán hợp đồng, nếu có. Nếu người nhận cầm cố, thế chấp không thông báo hoặc thông báo chậm gây thiệt hại cho người được thi hành án, họ sẽ phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
4. Cần thêm cơ chế ủy thác trong việc xử lý tài sản trong thi hành án dân sự.
Khoản 1 Điều 57 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) chỉ mới quy định về cơ chế ủy thác thi hành án (bao gồm ủy thác toàn bộ hoặc một phần nghĩa vụ thi hành án), nhưng chưa có cơ chế ủy thác xử lý tài sản để đồng thời xử lý tại các địa phương khác nhau. Theo quy định này, để thực hiện ủy thác thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự phải xử lý xong tài sản tạm giữ, tài sản thu giữ, tài sản kê biên tại địa phương có liên quan đến khoản ủy thác, rồi mới chuyển giao ủy thác cho cơ quan thi hành án dân sự nơi có tài sản ở địa phương khác để tiếp tục thực hiện.
Theo quy định này, cơ quan thi hành án dân sự không có quyền xử lý tài sản đã được tuyên trong bản án, quyết định (bao gồm việc thu hồi tiền, tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự liên quan đến tham nhũng, kinh tế) đồng thời, cũng không thể ủy thác cho cơ quan thi hành án nơi có tài sản để xử lý. Thay vào đó, cơ quan thi hành án phải thực hiện theo trình tự, nghĩa là phải xử lý xong tài sản tạm giữ, tài sản thu giữ, tài sản kê biên tại địa phương có liên quan đến khoản ủy thác rồi mới được phép ủy thác cho cơ quan thi hành án nơi có tài sản tiếp tục xử lý.
Hệ quả là quá trình tổ chức thi hành án gặp khó khăn, gây ách tắc và kéo dài thời gian, làm chậm việc thu hồi tiền và tài sản (đặc biệt là các khoản thu lớn cho ngân sách nhà nước và tổ chức tín dụng). Điều này ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án, khi họ không nhận được bảo vệ kịp thời. Đồng thời, việc này làm giảm giá trị tài sản, dẫn đến mất mát hoặc hư hỏng tài sản, tạo cơ hội cho đương sự tẩu tán tài sản, gây tốn kém thời gian và phát sinh chi phí tổ chức thi hành án. Ngoài ra, còn phát sinh thêm khoản tiền lãi chậm thi hành án mà người phải thi hành án phải chịu, đồng thời làm gia tăng thủ tục và làm chậm quá trình cải cách hành chính trong thi hành án dân sự.
5. Quy định của pháp luật Việt Nam về việc xử lý tài sản bảo đảm trong thi hành án dân sự.
Quy định về kê biên tài sản bảo đảm
Khoản 3 Điều 71 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định rằng một trong các biện pháp cưỡng chế thi hành án là 'kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, bao gồm cả tài sản đang do người thứ ba giữ'. Điều kiện để cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên và xử lý tài sản là khi hết thời gian tự nguyện thi hành án theo Điều 45 (10 ngày), và nếu người phải thi hành án có khả năng thi hành nhưng không tự nguyện, thì bị cưỡng chế theo Điều 46. Trường hợp này, bản án hoặc quyết định của Tòa án đã quyết định việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án. Thủ tục xử lý tài sản bảo đảm trong thi hành án dân sự được quy định tại Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Thủ tục thực hiện kê biên tài sản bảo đảm
Quyết định thi hành án được ban hành theo trình tự và thủ tục thi hành án dân sự nói chung. Tuy nhiên, trong trường hợp bản án hoặc quyết định của Tòa án đã tuyên việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh để bảo đảm thi hành án, thì khi ra quyết định thi hành án, cơ quan thi hành án cần nêu rõ nội dung về việc xử lý tài sản bảo đảm.
Trước khi kê biên tài sản là bất động sản, chấp hành viên phải thông báo ít nhất 03 ngày làm việc cho đại diện chính quyền cấp xã hoặc đại diện tổ dân phố nơi tiến hành cưỡng chế, cho đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm, và tài sản sẽ bị kê biên. Tuy nhiên, trường hợp cần ngăn chặn đương sự tẩu tán, hủy hoại tài sản, hoặc trốn tránh thi hành án, thông báo có thể không được thực hiện. Nếu đương sự vắng mặt, họ có thể ủy quyền cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Nếu thông báo đã hợp lệ mà đương sự hoặc người được ủy quyền vắng mặt, chấp hành viên vẫn tiến hành kê biên, nhưng phải mời người làm chứng và ghi rõ vào biên bản kê biên. Trong trường hợp không thể mời được người làm chứng, chấp hành viên vẫn tiến hành kê biên và ghi rõ vào biên bản.
Quy trình thực hiện kê biên tài sản bảo đảm thi hành án
Trong thủ tục chung, khi tiến hành kê biên tài sản, cần phải lập biên bản. Biên bản này phải ghi đầy đủ thông tin, bao gồm giờ, ngày, tháng, năm tiến hành kê biên, họ và tên của chấp hành viên, đương sự hoặc người được ủy quyền, người lập biên bản, người làm chứng và những người có liên quan đến tài sản. Biên bản cũng phải mô tả quá trình kê biên, tình trạng của từng tài sản, yêu cầu của đương sự, cùng với ý kiến của người làm chứng. Biên bản kê biên phải có chữ ký của đương sự hoặc người được ủy quyền, người làm chứng, đại diện chính quyền cấp xã hoặc tổ dân phố nơi thực hiện cưỡng chế, chấp hành viên và người lập biên bản.