1. Quy định về hiệu lực đối kháng.
Nghị định số 21/2021/NĐ-CP quy định chi tiết về hiệu lực đối kháng như sau:
Các biện pháp bảo đảm chỉ phát sinh hiệu lực đối kháng đối với người thứ ba trong trường hợp hợp đồng bảo đảm đã có hiệu lực pháp lý.
Trong các trường hợp biện pháp bảo đảm phải đăng ký theo quy định của Bộ luật Dân sự, các luật liên quan, hoặc theo thỏa thuận hoặc yêu cầu của bên nhận bảo đảm, thì thời điểm đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật là thời điểm mà biện pháp bảo đảm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba.
Trong các trường hợp không thuộc trường hợp đã nêu ở trên, hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp cầm cố tài sản, đặt cọc, ký cược sẽ bắt đầu từ thời điểm bên nhận bảo đảm nắm giữ tài sản bảo đảm.
Nắm giữ tài sản bảo đảm có thể hiểu là việc bên nhận bảo đảm trực tiếp quản lý, kiểm soát và chi phối tài sản bảo đảm, hoặc là trường hợp tài sản được một bên khác quản lý theo thỏa thuận hoặc quy định của pháp luật, nhưng bên nhận bảo đảm vẫn duy trì quyền kiểm soát và chi phối tài sản đó.
Nếu tài sản bảo đảm thuộc biện pháp bảo đảm theo quy định tại trường hợp thứ ba đã nêu, và được giao cho một bên khác quản lý, thì hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm với người thứ ba sẽ phát sinh từ một trong các thời điểm sau:
- Khi bên nhận cầm cố, bên nhận đặt cọc hoặc bên nhận ký cược nắm giữ tài sản bảo đảm.
- Người quản lý tài sản nhận tài sản bảo đảm trực tiếp từ bên cầm cố, bên đặt cọc, hoặc bên ký cược;
- Hợp đồng bảo đảm có hiệu lực trong trường hợp tài sản được sử dụng để cầm cố, đặt cọc, hoặc ký cược và hiện đang được quản lý bởi bên thứ ba.
Quy định về hiệu lực đối kháng của biện pháp ký quỹ đối với người thứ ba sẽ bắt đầu từ thời điểm tài sản ký quỹ được chuyển vào tài khoản phong tỏa tại tổ chức tín dụng nơi thực hiện ký quỹ.
Về hiệu lực của hợp đồng bảo đảm và hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm đối với người thứ ba đã nêu, hiệu lực này áp dụng đối với toàn bộ nghĩa vụ trong tương lai. Nếu các bên thỏa thuận về hợp đồng bảo đảm mới hoặc biện pháp bảo đảm mới đối với nghĩa vụ trong tương lai, thì hiệu lực đối kháng sẽ phát sinh theo hợp đồng hoặc biện pháp bảo đảm được xác lập mới.
Hiệu lực của hợp đồng bảo đảm và hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm với người thứ ba sẽ không thay đổi hoặc chấm dứt nếu các bên không thỏa thuận cụ thể về phạm vi nghĩa vụ trong tương lai, thời hạn thực hiện nghĩa vụ bảo đảm hoặc thời hạn bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Hiệu lực đối kháng với người thứ ba, hay còn được gọi là hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm, hiện chưa được quy định cụ thể trong Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, Khoản 1 Điều 297 Bộ luật dân sự năm 2015 nêu rõ: 'Biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ khi biện pháp bảo đảm được đăng ký, hoặc khi bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm.'
Hiệu lực đối kháng với người thứ ba có thể hiểu đơn giản là khi giao dịch bảo đảm được xác lập, quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong giao dịch không chỉ ràng buộc hai bên giao dịch mà còn tác động đến bên thứ ba đang chiếm giữ hoặc có quyền đối với tài sản bảo đảm, yêu cầu bên thứ ba phải tôn trọng và công nhận quyền của bên nhận bảo đảm.
Ngoài Điều 297, quy định về hiệu lực đối kháng với người thứ ba còn được thể hiện trong các điều khoản khác của Bộ luật dân sự, như Điều 298 về đăng ký biện pháp bảo đảm, Điều 308 về thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận tài sản bảo đảm, Điều 310 về hiệu lực của cầm cố tài sản, Điều 319 về thế chấp tài sản, Điều 331 về bảo lưu quyền sở hữu, và Điều 347 về cầm giữ tài sản. Ngoài ra, Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19 tháng 3 năm 2021 cũng quy định chi tiết về thi hành Bộ luật Dân sự liên quan đến bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Các quy định này làm rõ thời điểm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba, quyền lợi của bên nhận bảo đảm và các trường hợp cụ thể liên quan đến biện pháp bảo đảm.
2. Trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất
Theo quy định tại Điều 325 và Điều 326 Bộ luật Dân sự năm 2015, trong trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất, hoặc khi thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng đất, hợp đồng thế chấp vẫn có hiệu lực và biện pháp thế chấp tiếp tục có hiệu lực đối kháng với người thứ ba, miễn là tài sản gắn liền với đất hoặc quyền sử dụng đất không được bán, chuyển nhượng, chuyển giao quyền sở hữu, hoặc sử dụng làm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Hiệu lực của hợp đồng bảo đảm, cũng như hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm bằng tài sản được hình thành từ quyền bề mặt và quyền hưởng dụng, sẽ không thay đổi hoặc chấm dứt khi quyền sử dụng đất có quyền bề mặt hoặc tài sản thuộc quyền hưởng dụng được chuyển nhượng, bán, chuyển giao quyền sở hữu, hoặc được dùng để bảo đảm nghĩa vụ.
3. Nội dung về hiệu lực đối kháng
Hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm được coi là một căn cứ pháp lý. Khi hiệu lực này phát sinh đối với người thứ ba, nó sẽ làm cơ sở cho việc xử lý tài sản và được pháp luật công nhận.
Hiệu lực đối kháng với người thứ ba bảo vệ quyền lợi của bên nhận bảo đảm trong trường hợp tài sản bảo đảm có nhiều người cùng quyền lợi. Bên nhận bảo đảm sẽ được ưu tiên thanh toán trước các bên khác.
Các chủ thể khác có quyền đối với tài sản bảo đảm phải tôn trọng quyền của bên nhận bảo đảm, dù họ không tham gia vào giao dịch bảo đảm. Điều này đảm bảo quyền lợi cho bên nhận bảo đảm theo các quy định và thỏa thuận đã được ký kết.
Biện pháp bảo đảm có hiệu lực đối kháng khi được đăng ký hoặc khi tài sản bảo đảm được nắm giữ.
Bên nhận bảo đảm luôn được ưu tiên thanh toán trước khi biện pháp bảo đảm có hiệu lực đối kháng với tài sản bảo đảm.
4. Thời điểm biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba
Theo quy định tại Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ về thi hành Bộ luật Dân sự liên quan đến bảo đảm nghĩa vụ, biện pháp bảo đảm chỉ phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba khi hợp đồng bảo đảm đã có hiệu lực pháp lý. Cụ thể như sau:
- Đối với các biện pháp bảo đảm yêu cầu đăng ký theo Bộ luật Dân sự hoặc các luật liên quan, hoặc theo thỏa thuận hoặc yêu cầu của bên nhận bảo đảm, thời điểm đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật chính là thời điểm biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba.
- Đối với các biện pháp cầm cố tài sản, đặt cọc, ký cược không thuộc trường hợp bắt buộc phải đăng ký, không được đăng ký theo thỏa thuận hoặc yêu cầu của bên nhận bảo đảm, hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm sẽ phát sinh khi bên nhận bảo đảm nắm giữ tài sản bảo đảm.
Nắm giữ tài sản bảo đảm có nghĩa là bên nhận bảo đảm thực hiện quyền quản lý, kiểm soát, hoặc chi phối tài sản bảo đảm, hoặc tài sản này có thể được quản lý bởi người khác theo thỏa thuận hoặc quy định pháp luật, nhưng bên nhận bảo đảm vẫn duy trì quyền kiểm soát đối với tài sản đó.
- Đối với tài sản thuộc biện pháp cầm cố, đặt cọc, ký cược, không yêu cầu đăng ký, không đăng ký theo thỏa thuận hoặc theo yêu cầu của bên nhận bảo đảm và giao cho người khác quản lý, hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm sẽ phát sinh từ thời điểm:
+ Bên nhận cầm cố, bên nhận đặt cọc hoặc bên nhận ký cược nắm giữ tài sản bảo đảm;
+ Người quản lý tài sản nhận trực tiếp tài sản bảo đảm từ bên cầm cố, bên đặt cọc hoặc bên ký cược;
+ Hợp đồng bảo đảm sẽ có hiệu lực trong trường hợp tài sản, mà người khác đang quản lý trực tiếp, được sử dụng để cầm cố, đặt cọc hoặc ký cược.
- Hiệu lực đối kháng của biện pháp ký quỹ đối với người thứ ba sẽ phát sinh từ thời điểm tài sản ký quỹ được gửi vào tài khoản phong tỏa tại tổ chức tín dụng nơi thực hiện ký quỹ.
5. Các điều kiện để biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng.
Biện pháp bảo đảm cần được hình thành. Mối quan hệ giữa hiệu lực hợp đồng biện pháp bảo đảm và hiệu lực đối kháng với người thứ ba là: hiệu lực đối kháng với người thứ ba chỉ phát sinh khi biện pháp bảo đảm đã được hình thành. Theo Khoản 1 Điều 23 Nghị định 21/2021/NĐ-CP, ‘Biện pháp bảo đảm chỉ phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba khi hợp đồng bảo đảm có hiệu lực pháp luật.’ Vì vậy, các bên trong giao dịch bảo đảm phải hình thành hợp đồng và hợp đồng đó phải có hiệu lực pháp luật thì mới có hiệu lực đối kháng.
Biện pháp bảo đảm phải là các biện pháp đối vật. Các biện pháp bảo đảm đối vật bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu và cầm giữ tài sản.
Tất cả các tài sản đều có thể được dùng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ nếu thuộc sở hữu của bên bảo đảm. Đối với tài sản hình thành trong tương lai, việc sử dụng tài sản này làm biện pháp bảo đảm phụ thuộc vào nội dung và tính chất của từng biện pháp bảo đảm. Tùy vào từng trường hợp, tài sản hình thành trong tương lai có thể là đối tượng của một biện pháp bảo đảm nhất định nhưng không thể sử dụng cho biện pháp bảo đảm khác. Cụ thể, đối với biện pháp cầm cố, tài sản bảo đảm phải là tài sản hiện hữu, có sẵn vào thời điểm giao dịch để có thể giao cho bên nhận cầm cố. Tuy nhiên, đối với biện pháp thế chấp, tài sản đang hình thành vẫn có thể được thế chấp.
Hiệu lực đối kháng với người thứ ba sẽ không phát sinh nếu đối tượng của biện pháp bảo đảm là công việc hoặc uy tín, vì đây là những yếu tố mang tính chất nhân thân.
Các biện pháp bảo đảm này nhắm đến các lợi ích vật chất làm đối tượng bảo đảm. Các lợi ích vật chất này là những lợi ích thực tế có thể bù đắp cho nhau trong các nghĩa vụ giữa các bên. Do đó, đối tượng của biện pháp bảo đảm thường là tài sản. Hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm chỉ phát sinh khi đối tượng bảo đảm là tài sản, vì bản chất của hiệu lực đối kháng là cơ sở xác định quyền truy đòi tài sản và yêu cầu các bên khác phải tôn trọng quyền này.