Theo Điều 32 Bộ luật Lao động năm 2019, quy định về làm việc không trọn thời gian như sau:
Thứ nhất, người lao động làm việc không trọn thời gian là người có thời gian làm việc ít hơn so với thời gian làm việc chuẩn, tính theo ngày, tuần hoặc tháng, như đã được quy định trong pháp luật lao động, thỏa ước lao động tập thể hoặc nội quy lao động.
Thứ hai, người lao động có thể thỏa thuận với người sử dụng lao động về việc làm việc không trọn thời gian khi ký kết hợp đồng lao động.
Thứ ba, người lao động làm việc không trọn thời gian sẽ nhận lương và có quyền lợi bình đẳng, không phân biệt với người lao động làm việc trọn thời gian; được bảo vệ về cơ hội, đảm bảo an toàn và vệ sinh lao động.
Làm việc không trọn thời gian, hay còn gọi là làm việc bán thời gian, là hình thức công việc ngày càng trở nên phổ biến tại Việt Nam trong thời gian gần đây.
Bộ luật Lao động năm 2019 quy định về làm việc không trọn thời gian nhằm đảm bảo sự thống nhất trong việc hiểu về làm việc bán thời gian; cung cấp cơ sở pháp lý vững chắc để các bên ký kết hợp đồng lao động theo chế độ bán thời gian; xác định mức lương và các quyền lợi khác cho người lao động; tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp đối với người lao động làm việc bán thời gian theo đúng quy định của pháp luật, cùng nhiều vấn đề pháp lý liên quan khác.
Quy định về việc người lao động làm việc không trọn thời gian được hưởng lương và có quyền lợi bình đẳng như người làm việc trọn thời gian cần được hiểu rằng mức lương, quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động không trọn thời gian sẽ được tính theo tỷ lệ thời gian làm việc của họ.
Ví dụ: Anh A làm việc trọn thời gian (6 ngày mỗi tuần, mỗi ngày làm 8 giờ) với mức lương 14 triệu đồng/tháng. Trong khi đó, anh B làm việc không trọn thời gian (6 ngày mỗi tuần, mỗi ngày làm 4 giờ), mức lương sẽ là 7 triệu đồng/tháng.
Mytour cung cấp phân tích chi tiết về các quy định của Luật lao động liên quan đến làm việc không trọn thời gian như sau:
1. Các quy định của pháp luật về thời gian làm việc của người lao động
Dựa trên quy định tại Khoản 2 Điều 105 của Bộ luật lao động năm 2019, thời gian làm việc bình thường của người lao động không được vượt quá 08 giờ mỗi ngày và không quá 48 giờ mỗi tuần. Người sử dụng lao động có quyền thiết lập thời gian làm việc theo ngày hoặc theo tuần, nhưng phải thông báo rõ ràng cho người lao động. Trong trường hợp áp dụng thời gian làm việc theo tuần, thì mỗi ngày làm việc không được quá 10 giờ và không vượt quá 48 giờ mỗi tuần. Nhà nước khuyến khích việc thực hiện chế độ làm việc 40 giờ mỗi tuần đối với người lao động. Người sử dụng lao động có trách nhiệm đảm bảo rằng thời gian làm việc không tiếp xúc với các yếu tố nguy hiểm và có hại, phù hợp với các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia và các quy định pháp lý liên quan. Nếu người lao động làm việc trong thời gian quy định, đặc biệt trong giờ hành chính ban ngày, người sử dụng lao động phải tuân thủ các quy định pháp luật về thời gian làm việc.
Ngoài ra, Bộ luật Lao động năm 2019 còn quy định về giờ làm việc ban đêm tại Điều 106. Theo đó, giờ làm việc ban đêm được tính từ 22 giờ đến 06 giờ sáng ngày hôm sau. Người sử dụng lao động có thể yêu cầu người lao động làm thêm giờ, nhưng phải đáp ứng các yêu cầu theo quy định tại Điều 107 về việc sử dụng lao động làm thêm giờ. Thời gian làm thêm giờ là thời gian làm việc ngoài giờ làm việc bình thường theo quy định của pháp luật và các thỏa ước lao động tập thể hoặc nội quy lao động mà người sử dụng lao động đã ban hành. Người sử dụng lao động chỉ được phép yêu cầu người lao động làm thêm giờ nếu đáp ứng đầy đủ các yêu cầu sau đây:
- Người lao động phải đồng ý trước khi người sử dụng lao động yêu cầu làm thêm giờ.
- Số giờ làm thêm của người lao động phải được giới hạn, không được vượt quá 50% thời gian làm việc bình thường trong một ngày. Trong trường hợp áp dụng thời gian làm việc bình thường theo tuần, tổng số giờ làm việc bình thường cộng với số giờ làm thêm không được quá 12 giờ trong một ngày. Theo quy định của pháp luật, người sử dụng lao động không được yêu cầu người lao động làm thêm quá 40 giờ mỗi tháng.
- Người sử dụng lao động cần bảo đảm rằng số giờ làm thêm của người lao động không vượt quá 200 giờ trong một năm, trừ trường hợp pháp luật quy định khác.
Người sử dụng lao động có thể yêu cầu người lao động làm thêm tối đa 300 giờ trong một năm đối với một số ngành nghề, công việc, hoặc trường hợp đặc biệt sau đây:
- Sản xuất, gia công xuất khẩu các sản phẩm như hàng dệt, may, da giày, điện, điện tử, chế biến nông sản, lâm sản, diêm nghiệp, thủy sản;
- Sản xuất và cung cấp điện, viễn thông, lọc dầu, cấp và thoát nước;
- Trong trường hợp công việc yêu cầu lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao mà thị trường lao động không đáp ứng đủ và kịp thời;
- Trường hợp công việc cấp bách cần giải quyết ngay, không thể trì hoãn do yếu tố thời vụ, đặc thù về thời gian của nguyên liệu, sản phẩm hoặc các công việc phát sinh do yếu tố khách quan như thiên tai, hỏa hoạn, địch họa, thiếu điện, thiếu nguyên liệu hoặc sự cố kỹ thuật trong dây chuyền sản xuất;
- Các trường hợp khác sẽ được quy định cụ thể theo quy định của pháp luật do Chính phủ ban hành.
Khi tổ chức làm thêm giờ, theo quy định về việc người sử dụng lao động có thể sử dụng người lao động làm thêm không quá 300 giờ trong một năm cho các ngành nghề, công việc hoặc trường hợp đặc biệt, người sử dụng lao động phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan chuyên môn về lao động của ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Chính phủ đã quy định chi tiết về việc sử dụng lao động làm thêm giờ. Như vậy, người sử dụng lao động có quyền yêu cầu làm thêm giờ nếu đáp ứng đầy đủ yêu cầu pháp lý.
2. Khái niệm người lao động làm việc không trọn thời gian được hiểu như thế nào?
Căn cứ theo Điều 34 của Bộ luật Lao động năm 2019, người lao động làm việc không trọn thời gian là những người có thời gian làm việc ít hơn so với thời gian làm việc bình thường theo ngày hoặc theo tuần theo quy định của pháp luật Việt Nam, thỏa ước lao động tập thể doanh nghiệp, thỏa ước lao động tập thể ngành, hoặc quy định của người sử dụng lao động trong nội quy lao động. Người lao động có thể thỏa thuận với người sử dụng lao động về việc làm việc không trọn thời gian khi ký kết hợp đồng lao động. Đồng thời, người lao động làm việc không trọn thời gian được hưởng lương và các quyền lợi tương tự như người lao động làm việc trong thời gian đầy đủ, có quyền bình đẳng về cơ hội và đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh lao động.
Theo quy định hiện hành, thời gian làm việc bình thường không được vượt quá 08 giờ mỗi ngày và không quá 48 giờ mỗi tuần. Ngoài ra, người sử dụng lao động có quyền quy định thời gian làm việc theo ngày hoặc theo tuần nhưng phải thông báo cho người lao động. Trong trường hợp tính theo tuần, thời gian làm việc bình thường không được phép vượt quá 10 giờ mỗi ngày và không quá 48 giờ mỗi tuần. Như vậy, người lao động làm việc không trọn thời gian là những người có thời gian làm việc ít hơn so với mức thời gian bình thường theo ngày hoặc theo tuần, hoặc có thể là thiếu tháng theo quy định của pháp luật lao động hoặc nội quy lao động do người sử dụng lao động ban hành. Người lao động có quyền thỏa thuận với người sử dụng lao động về việc làm việc không trọn thời gian khi ký kết hợp đồng lao động và sẽ được hưởng đầy đủ lương và quyền lợi tương đương với người lao động làm việc trong thời gian đầy đủ, bao gồm quyền bình đẳng về cơ hội, không bị phân biệt đối xử, và được bảo đảm về an toàn lao động, vệ sinh lao động.
3. Đối tượng làm việc không trọn thời gian.
Thứ nhất, đối tượng làm việc không trọn thời gian là những người lao động đã thỏa thuận với người sử dụng lao động về việc làm việc không trọn thời gian khi ký kết hợp đồng lao động. Theo Khoản 2 Điều 32 của Bộ luật Lao động năm 2019, người lao động có quyền thỏa thuận với người sử dụng lao động về việc làm việc không trọn thời gian khi giao kết hợp đồng lao động. Như vậy, đối tượng làm việc không trọn thời gian có thể là bất kỳ cá nhân nào, miễn là giữa người lao động và người sử dụng lao động đã đạt được thỏa thuận về vấn đề này.
Thứ hai, lao động nữ thực hiện các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, có ảnh hưởng tiêu cực đến chức năng sinh sản và nuôi con, và lao động nữ trong thời gian hành kinh: Theo Điều 137 của Bộ luật Lao động năm 2019, lao động nữ làm các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc công việc có ảnh hưởng xấu đến chức năng sinh sản và nuôi con khi mang thai sẽ được chuyển sang công việc nhẹ nhàng hơn, an toàn hơn hoặc giảm 01 giờ làm việc mỗi ngày mà không bị giảm lương và các quyền lợi cho đến khi hết thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Đặc biệt, lao động nữ trong thời gian hành kinh được nghỉ 30 phút mỗi ngày; trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi, lao động nữ được nghỉ 60 phút mỗi ngày trong thời gian làm việc. Thời gian nghỉ này vẫn được hưởng đầy đủ lương theo hợp đồng lao động đã thỏa thuận trước đó. Thêm vào đó, Khoản 4 Điều 58 của Nghị định số 145/2020/NĐ-CP quy định về thời gian nghỉ đối với lao động nữ trong thời gian mang thai, nuôi con dưới 12 tháng tuổi và hành kinh theo Bộ luật Lao động. Vì vậy, người lao động nữ làm công việc nặng nhọc, độc hại hoặc lao động nữ trong thời gian hành kinh có thể làm việc không trọn thời gian.
Lao động nữ trong kỳ hành kinh có quyền nghỉ 30 phút mỗi ngày trong thời gian làm việc. Trong suốt thời gian nghỉ này, lao động nữ vẫn nhận đủ lương theo hợp đồng lao động. Hai bên có thể tự thỏa thuận về số ngày nghỉ trong kỳ hành kinh sao cho phù hợp với tình hình thực tế tại nơi làm việc và nhu cầu của lao động nữ, nhưng không dưới 03 ngày mỗi tháng. Người lao động sẽ thông báo về thời gian nghỉ với người sử dụng lao động. Nếu lao động nữ yêu cầu nghỉ linh hoạt hơn, hai bên có thể thỏa thuận để điều chỉnh sao cho phù hợp với điều kiện làm việc. Trường hợp lao động nữ không muốn nghỉ, nếu được người sử dụng lao động đồng ý làm việc, ngoài lương theo quy định, lao động nữ sẽ nhận thêm lương cho công việc thực hiện trong thời gian nghỉ. Tuy nhiên, thời gian này sẽ không tính vào thời gian làm thêm theo quy định pháp luật. Do vậy, lao động nữ có quyền nghỉ 30 phút mỗi ngày trong giờ làm việc và vẫn đảm bảo nhận đủ lương.
Khi lao động nữ nuôi con dưới 12 tháng tuổi, họ có quyền nghỉ 60 phút mỗi ngày trong giờ làm việc để cho con bú, vắt sữa, hoặc nghỉ ngơi. Thời gian nghỉ này sẽ được trả lương đầy đủ theo hợp đồng lao động. Nếu lao động nữ có yêu cầu nghỉ linh hoạt hơn, họ có thể thỏa thuận với người sử dụng lao động để bố trí thời gian nghỉ phù hợp với điều kiện làm việc. Nếu lao động nữ không muốn nghỉ và được sự đồng ý của người sử dụng lao động để tiếp tục làm việc, ngoài tiền lương theo quy định, lao động nữ sẽ nhận thêm tiền lương cho công việc đã thực hiện trong thời gian nghỉ mà lẽ ra họ được nghỉ.
Thứ ba, người lao động cao tuổi có quyền thỏa thuận với người sử dụng lao động về việc rút ngắn thời gian làm việc hằng ngày hoặc áp dụng chế độ làm việc không trọn thời gian theo quy định tại Khoản 2 Điều 148 của Bộ luật Lao động năm 2019. Người lao động cao tuổi có thể thỏa thuận với người sử dụng lao động để giảm giờ làm việc hằng ngày hoặc áp dụng chế độ làm việc không trọn thời gian khi ký hợp đồng lao động. Các bên có thể thỏa thuận về số giờ làm việc mỗi ngày, có thể ít hơn so với quy định của công ty hoặc số ngày làm việc trong tháng. Người lao động làm việc không trọn thời gian sẽ được hưởng lương và quyền lợi tương đương với người lao động làm việc đủ giờ, đảm bảo quyền bình đẳng, không phân biệt đối xử và bảo vệ an toàn lao động, vệ sinh lao động.
4. Bộ luật Lao động năm 2019 quy định về làm việc không trọn thời gian như thế nào?
Làm việc không trọn thời gian là hình thức phổ biến trong quan hệ lao động hiện nay, nhờ tính linh hoạt về thời gian. Tại Việt Nam, hình thức làm việc này ngày càng trở nên phổ biến và đã được quy định rõ ràng trong Bộ luật Lao động. Theo Bộ luật Lao động năm 2012, người lao động làm việc không trọn thời gian là người có thời gian làm việc ít hơn so với thời gian làm việc bình thường, theo ngày hoặc tuần, như đã được quy định trong pháp luật lao động, thỏa ước lao động tập thể doanh nghiệp, thỏa ước lao động ngành, hoặc theo quy định của người sử dụng lao động. Bộ luật cũng quy định rõ các quyền lợi của người lao động làm việc không trọn thời gian, bao gồm quyền thỏa thuận với người sử dụng lao động về việc làm việc không trọn thời gian khi ký hợp đồng lao động. Người lao động làm việc không trọn thời gian cũng sẽ được hưởng đầy đủ quyền lợi như người lao động làm việc toàn thời gian, bao gồm quyền bình đẳng về cơ hội, không bị phân biệt đối xử và bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động.
Pháp luật lao động hiện hành được quy định cụ thể trong Bộ luật Lao động năm 2019, kế thừa các quy định trong Bộ luật Lao động năm 2012, trong đó có quy định về làm việc không trọn thời gian. Người lao động làm việc không trọn thời gian là những người có thời gian làm việc ngắn hơn so với quy định bình thường theo ngày, tuần hoặc tháng trong pháp luật lao động, thỏa ước lao động tập thể, hoặc nội quy lao động. Người lao động có quyền thỏa thuận với người sử dụng lao động về việc làm việc không trọn thời gian khi ký kết hợp đồng lao động. Người lao động làm việc không trọn thời gian vẫn được đảm bảo quyền lợi, bao gồm tiền lương và quyền bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ, quyền làm việc bình đẳng, không bị phân biệt đối xử, và đảm bảo an toàn vệ sinh lao động. Vì vậy, làm việc không trọn thời gian, hay còn gọi là làm việc bán thời gian, đang trở thành một hình thức phổ biến tại Việt Nam trong thời gian gần đây. Pháp luật lao động hiện nay đảm bảo tính thống nhất trong việc hiểu về lao động bán thời gian và cung cấp cơ sở pháp lý đầy đủ để bảo vệ quyền lợi của người lao động. Điều này cũng giúp người sử dụng lao động và người lao động thỏa thuận hợp đồng lao động theo chế độ bán thời gian, từ đó xác định mức lương và các quyền lợi khác, bao gồm quyền tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp theo đúng quy định của pháp luật và các quyền lợi hợp pháp khác của người lao động và người sử dụng lao động. Theo Bộ luật Lao động năm 2019, người lao động làm việc không trọn thời gian sẽ được tính lương và quyền lợi tương ứng với tỷ lệ thời gian làm việc thực tế.