Thủ tục rút gọn hiện nay được áp dụng như một trình tự tố tụng đặc biệt, giúp điều tra, truy tố, và xét xử nhanh chóng các vụ án ít nghiêm trọng, phạm tội quả tang, hoặc với đối tượng phạm tội có lý lịch rõ ràng. Tuy nhiên, quá trình này phải tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành và không được làm trái các nguyên tắc tố tụng cơ bản. Vậy thủ tục tố tụng rút gọn là gì và điểm khác biệt của nó so với thủ tục thông thường là gì? Cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây.
1. Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự là gì?
Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự có thể được hiểu là một quy trình đặc biệt được thiết kế để giảm thiểu thời gian và đơn giản hóa các bước tố tụng. Nó áp dụng đối với các vụ án tội phạm ít nghiêm trọng, phạm tội quả tang, có chứng cứ rõ ràng, hoặc khi bị can tự thú. Mục tiêu là giải quyết các vụ án nhanh chóng nhưng vẫn bảo đảm tuân thủ nguyên tắc tố tụng hình sự và quyền lợi hợp pháp của các bên tham gia. Thực chất, thủ tục này là một ngoại lệ, cho phép cơ quan tố tụng rút ngắn quy trình và giải quyết vụ án hiệu quả mà không làm sai lệch công lý.
2. Phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn
Thủ tục rút gọn được áp dụng nhằm giải quyết tình trạng án tồn đọng kéo dài, không thể giải quyết hết do các vướng mắc trong quy trình giải quyết vụ án. Nó còn giúp giảm tải trong việc giam giữ nghi phạm, bị can, tiết kiệm chi phí, nhân lực, và thời gian. Việc này góp phần tập trung giải quyết các vụ án phức tạp, chi tiết hơn, đồng thời giảm gánh nặng cho cán bộ tư pháp và nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tội phạm.
Thủ tục rút gọn mang lại nhiều lợi ích, nhưng chỉ có thể áp dụng đối với những vụ án có tính chất đơn giản. Các vụ án phức tạp, nhiều chi tiết không thể sử dụng thủ tục này vì sẽ không đảm bảo đúng các nguyên tắc và quyền lợi của các bên tham gia tố tụng.
Do đó, phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn bao gồm: điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm theo quy định tại Điều 455 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
3. Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn
Căn cứ vào Điều 456 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định:
STT | THỦ TỤC | NỘI DUNG |
1 | Thủ tục rút gọn được áp dụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm khi có đủ các điều kiện | Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang hoặc người đó tự thú. Việc bổ sung thêm quy định so với luật cũ phản ảnh yêu cầu phòng chống tội phạm và phát huy hết tác dụng của thủ tục rút gọn Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng. Sự việc phạm tội đơn giản là những sự việc cần chứng minh trong vụ án không quá phức tạp và dễ xác định. Chứng cứ phản ánh đầy đủ, chính xác và toàn diện những vấn đề liên quan trực tiếp đến vụ án Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng. Tội ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến ba năm (khoản 1 Điều 9 Bộ luật Hình sự năm 2015) Người phạm tôi có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng. Lý lịch có liên quan đến trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt trong thực tiễn xét xử |
2 | Thủ tục rút gọn được áp dụng trong xét xử phúc thẩm khi có một trong các điều kiện | Vụ án đã được áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử sơ thẩm và chỉ có kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ hình phạt hoặc cho bị cáo được hưởng án treo Vụ án chưa được áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử sơ thẩm nhưng có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này và chỉ có kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ hình phạt hoặc cho bị cáo được hưởng án treo. |
Như vậy, so với Bộ luật Tố tụng hình sự trước đây, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã mở rộng việc áp dụng thủ tục rút gọn, bao gồm cả các vụ án xét xử phúc thẩm. Đồng thời, bổ sung thêm trường hợp người phạm tội tự thú về hành vi của mình và yêu cầu đáp ứng một số điều kiện nhất định theo quy định. Thay vì cụm từ "có căn cước, lai lịch rõ ràng", Bộ luật mới sử dụng "có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng" để thống nhất hiểu biết. Về thẩm quyền quyết định áp dụng thủ tục rút gọn, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án có quyền quyết định, theo Điều 457 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
4. Sự khác biệt giữa thủ tục tố tụng rút gọn và thủ tục tố tụng thông thường
Về cơ bản, thủ tục rút gọn trong các giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm tương tự với thủ tục tố tụng thông thường. Tuy nhiên, vẫn có một số điểm khác biệt cần lưu ý:
STT | NỘI DUNG |
1 | Thời hạn tiến hành tố tụng theo thủ tục rút gọn ngắn hơn so với thủ tục thông thường. Theo thủ tục rút gọn thì thời gian điều tra là 20 ngày, thời hạn truy tố là 05 ngày, thời hạn xét sử sơ thẩm không quá 17 ngày, thời hạn xét xử phúc thẩm không quá 22 ngày. Trong khi đó đối với thủ tục thông thường thì thời hạn điều tra vụ án không quá 02 tháng kể từ khi khởi tố vụ án đến khi kết thúc điều tra và có thể gia hạn một lần không quá 02 thang đối với tội ít nghiêm trọng |
2 | Ở giai đoạn truy tố, thời hạn quyết định truy tố không quá 20 ngày kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được hồ sơ vụ án và kết luận điều tra, Viện trưởng viện kiểm sát có thể gia hạn không quá 10 ngày trong trường hợp cần thiết đối với thủ tục tố tụng thông thường. Trong khi đó, đối với thủ tục tố tụng rút gọn thời hạn truy tố tối đa là 05 ngày. |
3 | Ở giai đoạn xét xử đối với thủ tục tố tụng thông thường thì thời hạn chuẩn bị xét xử không quá 30 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án, Chánh án Toà án có thể gia hạn nhưng không quá 15 ngày với trường hợp đặc biệt. Đối với thủ tục tố tụng rút gọn thời gian chuẩn bị xét xử tối đa là 17 ngày, rút ngắn được 28 ngày |
4 | Phiên toà xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn do một Thẩm phán tiến hành (ban hành quyết định, chuyển giao hồ sơ vụ án, gửi, giao quyết định đưa vụ án ra xét xử) và không tiến hành nghị án trong quá trình xét xử sơ thẩm, Việc xét xử phúc thẩm cũng chỉ do một Thẩm phán tiến hành |
5 | Có thể thấy, so với thủ tục tố tụng thông thường, thủ tục rút gọn đã rút ngắn thời gian tố tung đi rất nhiều, giản lược đi một số thủ tục không cần thiết. Thủ tục rút gọn mang một ý nghĩa quan trọng, góp phần giải quyết nhanh chóng, kịp thời một số vụ án hình sự nhất định mang tính chất không quá phức tạp nhưng vấn đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. |