1. Thẩm quyền giám đốc thẩm
Thẩm quyền giám đốc thẩm được xác định dựa trên bản chất của quá trình giám đốc thẩm và cơ cấu tổ chức của hệ thống tòa án. Theo Điều 337 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, chỉ có Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân cấp cao mới có quyền xét xử giám đốc thẩm đối với các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị. Cụ thể như sau:
- Uỷ ban thẩm phán của Tòa án nhân dân cấp cao thực hiện việc giám đốc thẩm đối với các bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền lãnh thổ khi các bản án này bị kháng nghị.
- Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc giám đốc thẩm đối với các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao bị kháng nghị. Nếu có nhiều bản án, quyết định cùng một vụ án dân sự đã có hiệu lực pháp luật và bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp cao và Tòa án nhân dân tối cao, thì thẩm quyền giám đốc thẩm thuộc về Tòa án nhân dân tối cao để xét xử toàn bộ.
2. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm
Giám đốc thẩm là thủ tục để xem xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và bị kháng nghị. Tương tự như thủ tục phúc thẩm, các thành viên trong hội đồng xét xử giám đốc thẩm phải là những thẩm phán có chuyên môn cao trong việc xét xử. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm không bao gồm sự tham gia của hội thẩm nhân dân. Thành phần của hội đồng xét xử giám đốc thẩm được quy định tại Điều 66 và Điều 337 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 như sau: I
- Uỷ ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tiến hành giám đốc thẩm thông qua hội đồng xét xử gồm ba thẩm phán đối với bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Đối với những bản án, quyết định có tính chất phức tạp hoặc các bản án, quyết định đã được xét xử bởi hội đồng xét xử ba thẩm phán mà không có sự thống nhất trong việc biểu quyết về việc giải quyết vụ án, thì Uỷ ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao sẽ xét xử giám đốc thẩm với sự tham gia của toàn bộ Uỷ ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao.
- Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tiến hành giám đốc thẩm thông qua hội đồng xét xử gồm năm thẩm phán đối với bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp cao bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Trong trường hợp bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao có tính chất phức tạp hoặc nếu hội đồng xét xử gồm năm thẩm phán không đạt được sự thống nhất khi biểu quyết, thì Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sẽ tiến hành giám đốc thẩm với sự tham gia của toàn bộ Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Các vụ án có tính chất phức tạp được xác định là những vụ án thuộc một trong các tình huống dưới đây:
- Các quy định của pháp luật về những vấn đề cần giải quyết trong vụ án vẫn chưa rõ ràng hoặc chưa được hướng dẫn và áp dụng một cách thống nhất;
- Việc đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật có nhiều quan điểm khác nhau;
- Các vụ án liên quan đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền con người và quyền công dân, đặc biệt là những vấn đề nhận được sự quan tâm sâu sắc từ dư luận xã hội.
Việc tổ chức xét xử giám đốc thẩm của Uỷ ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao có thể được thực hiện qua hội đồng xét xử gồm ba thẩm phán hoặc toàn bộ uỷ ban thẩm phán, do Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao quyết định. Tương tự, việc Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tiến hành giám đốc thẩm có thể bao gồm năm thẩm phán hoặc toàn bộ Hội đồng thẩm phán, quyết định này được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét và phê duyệt.
3. Chuẩn bị cho việc mở phiên tòa giám đốc thẩm
Để kịp thời khắc phục các sai sót trong các bản án, quyết định đã bị kháng nghị, tòa án sẽ tổ chức phiên tòa giám đốc thẩm trong thời gian sớm nhất có thể. Theo Điều 339 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, phiên tòa giám đốc thẩm phải được tiến hành trong vòng 04 tháng kể từ ngày nhận được kháng nghị kèm theo hồ sơ vụ án. Trong khoảng thời gian này, tòa án sẽ thực hiện tất cả các công việc cần thiết để chuẩn bị cho phiên tòa giám đốc thẩm.
Sau khi nhận được kháng nghị, tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm yêu cầu tòa án đã ra bản án, quyết định bị kháng nghị chuyển hồ sơ vụ án để tòa án mình nghiên cứu và chuẩn bị cho việc xét xử. Chánh án tòa án sẽ phân công một thẩm phán trong hội đồng xét xử chịu trách nhiệm chính trong việc chuẩn bị cho phiên tòa. Thẩm phán này có nhiệm vụ nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, bản án, quyết định bị kháng nghị, các ý kiến kháng nghị, và kết luận của viện kiểm sát (nếu có), sau đó trình bày thuyết trình về vụ án. Các thẩm phán khác trong hội đồng xét xử cũng sẽ tham gia nghiên cứu hồ sơ và nắm rõ nội dung vụ án để tham gia xét xử.
Bản thuyết trình cần phải tóm tắt nội dung vụ án và các bản án, quyết định của các cấp tòa án, cùng với nội dung kháng nghị. Bản thuyết trình này phải được gửi cho các thành viên hội đồng giám đốc thẩm ít nhất 07 ngày trước ngày mở phiên tòa giám đốc thẩm.
4. Những người tham gia trong phiên tòa giám đốc thẩm
Giám đốc thẩm là một thủ tục tố tụng nhằm xem xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Do đó, để đảm bảo thủ tục này được thực hiện đúng quy định của pháp luật, viện kiểm sát nhân dân cùng cấp phải tham gia đầy đủ vào tất cả các phiên tòa giám đốc thẩm để kiểm tra việc tuân thủ pháp luật trong việc xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Bên cạnh đó, việc xem xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm chủ yếu dựa vào hồ sơ vụ án, vì vậy những người tham gia tố tụng không nhất thiết phải có mặt tại phiên tòa. Tòa án chỉ triệu tập đương sự hoặc người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự, hoặc các bên tham gia tố tụng khác có liên quan đến kháng nghị khi việc tham gia của họ là cần thiết cho việc xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật (Điều 338 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015). Tòa án sẽ xác định những người cần phải triệu tập đến tham gia phiên tòa tùy vào từng trường hợp cụ thể. Khi triệu tập, tòa án phải gửi giấy triệu tập với đầy đủ thông tin về ngày, giờ và địa điểm mở phiên tòa. Nếu người được triệu tập không có mặt tại phiên tòa, hội đồng xét xử giám đốc thẩm vẫn sẽ tiến hành phiên tòa.
5. Phạm vi giám đốc thẩm
Mục đích của việc xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm là để sửa chữa các sai sót trong những bản án, quyết định này. Về nguyên tắc, để khắc phục sai sót, hội đồng giám đốc thẩm phải xem xét toàn bộ nội dung bản án, quyết định bị kháng nghị. Tuy nhiên, để bảo vệ tính ổn định của bản án, quyết định và tránh kéo dài quá trình giải quyết vụ án, Điều 342 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định hội đồng giám đốc thẩm chỉ được xem xét phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị hoặc có liên quan đến nội dung kháng nghị. Bên cạnh đó, hội đồng giám đốc thẩm có quyền xem xét phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà không bị kháng nghị hoặc không liên quan đến kháng nghị nếu phần quyết định đó ảnh hưởng đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, hoặc quyền lợi của người thứ ba không phải là đương sự trong vụ án.
6. Thủ tục tiến hành phiên tòa giám đốc thẩm
Phiên tòa giám đốc thẩm có những đặc điểm khác biệt so với phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, chủ yếu vì nó được tổ chức dựa trên việc xem xét các tài liệu có sẵn trong hồ sơ vụ án. Quy trình tiến hành phiên tòa giám đốc thẩm được quy định chi tiết tại Điều 341 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Theo quy định này, phiên tòa giám đốc thẩm sẽ được tổ chức như sau:
- Phiên tòa giám đốc thẩm không được tổ chức công khai.
- Sau khi chủ tọa khai mạc phiên tòa, một thành viên trong hội đồng xét xử giám đốc thẩm sẽ trình bày tóm tắt về nội dung vụ án, quá trình xét xử, quyết định của bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật và bị kháng nghị, các căn cứ, nhận định trong kháng nghị và các đề xuất của người kháng nghị. Trong trường hợp viện kiểm sát là bên kháng nghị, đại diện viện kiểm sát sẽ trình bày nội dung kháng nghị. Nếu đương sự, người đại diện hợp pháp, hoặc người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự, hoặc những người tham gia tố tụng khác đã được triệu tập tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, họ sẽ có quyền trình bày ý kiến của mình về các vấn đề mà hội đồng giám đốc thẩm yêu cầu. Trong trường hợp họ vắng mặt nhưng đã có văn bản trình bày ý kiến, hội đồng xét xử giám đốc thẩm sẽ công bố các ý kiến đó. Nếu có vấn đề chưa rõ, hội đồng xét xử giám đốc thẩm có thể yêu cầu thêm giải thích.
- Khi các bên tham gia phiên tòa đã trình bày xong ý kiến của mình và các thành viên hội đồng xét xử giám đốc thẩm đã hỏi xong, đại diện viện kiểm sát sẽ phát biểu ý kiến về quyết định kháng nghị và cách giải quyết vụ án. Ngay sau khi phiên tòa kết thúc, đại diện viện kiểm sát phải gửi văn bản phát biểu ý kiến của mình cho tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án.
- Các thành viên trong hội đồng xét xử giám đốc thẩm sẽ thảo luận và phát biểu ý kiến về cách giải quyết vụ án.
- Hội đồng xét xử giám đốc thẩm tiến hành nghị án, thảo luận về việc giải quyết vụ án và công bố quyết định liên quan đến việc giải quyết vụ án tại phiên tòa. Quá trình nghị án phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
+ Chỉ các thành viên trong hội đồng xét xử giám đốc thẩm mới có quyền tham gia nghị án;
+ Các thành viên hội đồng xét xử giám đốc thẩm phải dựa trên các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, cùng các quy định của pháp luật để ra quyết định. Nếu vụ án chưa có điều luật cụ thể, thì còn phải căn cứ vào tập quán, pháp luật tương tự, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, hoặc lẽ công bằng để giải quyết các vấn đề của vụ án, và việc quyết định phải được thực hiện bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề cụ thể;
+ Khi tiến hành biểu quyết, các thành viên hội đồng xét xử giám đốc thẩm sẽ biểu quyết trước, và chủ tọa phiên tòa sẽ biểu quyết sau cùng. Các thành viên có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản, và các ý kiến này sẽ được đưa vào hồ sơ vụ án.
Trong trường hợp ủy ban thẩm phán tòa án nhân dân cấp cao xét xử giám đốc thẩm với một hội đồng gồm ba thẩm phán, quyết định của hội đồng xét xử phải được tất cả các thành viên tham gia biểu quyết đồng ý. Nếu ủy ban thẩm phán tòa án nhân dân cấp cao xét xử giám đốc thẩm với toàn thể ủy ban thẩm phán, thì phiên tòa xét xử phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia; quyết định của ủy ban thẩm phán sẽ chỉ có hiệu lực nếu quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành.
Khi Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm với một hội đồng gồm năm thẩm phán, quyết định của hội đồng này phải được tất cả các thành viên tham gia đồng ý. Trong trường hợp xét xử giám đốc thẩm với toàn bộ Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, phiên tòa phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia. Quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chỉ có hiệu lực nếu quá nửa tổng số thành viên tán thành.
7. Quyền hạn của hội đồng xét xử giám đốc thẩm
Dựa trên tính chất giám đốc thẩm, Điều 343 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định quyền hạn của hội đồng xét xử giám đốc thẩm. Khi xem xét lại bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật và bị kháng nghị, hội đồng xét xử giám đốc thẩm có quyền quyết định như sau:
Thứ nhất là không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Hội đồng xét xử giám đốc thẩm không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi bản án, quyết định là đúng và kháng nghị không có cơ sở pháp lý.
Thứ hai là giữ nguyên bản án, quyết định hợp pháp của tòa án cấp dưới đã bị hủy hoặc sửa đổi.
Theo Điều 344 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, nếu có căn cứ kháng nghị, và bản án, quyết định của tòa án cấp dưới bị hủy hoặc sửa không đúng, hội đồng giám đốc thẩm có quyền ra quyết định hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định của tòa án cấp dưới khi xét xử đúng pháp luật nhưng đã bị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị hủy bỏ hoặc sửa đổi một phần hoặc toàn bộ. Ví dụ: Khi xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, hội đồng giám đốc thẩm của tòa án nhân dân cấp cao có thể hủy bản án, quyết định phúc thẩm của tòa án nhân dân cấp tỉnh và giữ nguyên bản án, quyết định của tòa án nhân dân cấp huyện đã bị bản án, quyết định phúc thẩm của tòa án nhân dân cấp tỉnh sửa hoặc hủy.
Thứ ba là hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm hoặc phúc thẩm.
Hội đồng xét xử giám đốc thẩm có thể ra quyết định hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm hoặc phúc thẩm nếu kháng nghị có cơ sở hợp pháp. Theo Điều 345 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, hội đồng xét xử giám đốc thẩm có quyền hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để xét xử lại sơ thẩm hoặc phúc thẩm trong những trường hợp sau:
- Việc thu thập chứng cứ và chứng minh chưa được thực hiện đầy đủ hoặc không tuân thủ các quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự.
- Kết luận trong bản án, quyết định không phản ánh đúng các tình tiết khách quan của vụ án hoặc có sai sót nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật;
- Thành phần của hội đồng xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm không tuân thủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự hoặc có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.
Khi tiến hành xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, hội đồng xét xử giám đốc thẩm có thể hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, và giao lại cho tòa án cấp mình hoặc cấp dưới xét xử lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm hoặc phúc thẩm. Đồng thời, hội đồng giám đốc thẩm có thể đưa ra hướng dẫn cho tòa án về các vấn đề cần thiết như đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật trong giải quyết vụ án. Tuy nhiên, hội đồng xét xử giám đốc thẩm không có quyền chỉ định cách giải quyết vụ án khi tòa án xét lại vụ án. Tòa án khi xét lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm hoặc phúc thẩm sẽ quyết định dựa trên các tình tiết của vụ án và các quy định pháp luật, không bị ràng buộc bởi chỉ dẫn của hội đồng giám đốc thẩm.
Thứ tư là hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án.
Khi xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, theo Điều 346 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, nếu có một trong các căn cứ quy định tại Điều 217 của Bộ luật này, hội đồng xét xử giám đốc thẩm có thể quyết định hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án do sự việc không thuộc thẩm quyền của tòa án, tòa án cần hướng dẫn các bên liên quan yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Nếu bản án, quyết định của tòa án đã được thi hành một phần hoặc toàn bộ, bên cạnh việc hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án, hội đồng xét xử giám đốc thẩm còn phải quyết định về hậu quả của việc thi hành án.
Thứ năm là sửa đổi một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án.
Theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, hội đồng xét xử giám đốc thẩm có quyền ra quyết định sửa đổi một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật khi đảm bảo đủ các điều kiện sau đây:
- Tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã đầy đủ và rõ ràng; có đủ cơ sở để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án;
- Việc sửa đổi bản án, quyết định bị kháng nghị không gây ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khác.
Trong trường hợp bản án, quyết định của tòa án đã được thi hành một phần hoặc toàn bộ, ngoài việc sửa đổi bản án, quyết định, hội đồng xét xử giám đốc thẩm phải ra quyết định về việc giải quyết hậu quả phát sinh từ quá trình thi hành án.
8. Quyết định giám đốc thẩm
Khi tiến hành xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tòa án sẽ ra quyết định giám đốc thẩm. Quyết định này phải bao gồm các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 348 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực thi hành ngay lập tức.
Theo quy định tại Điều 350 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trong vòng 05 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định, hội đồng xét xử giám đốc thẩm phải gửi quyết định giám đốc thẩm cho các đương sự, cũng như những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đồng thời, quyết định giám đốc thẩm cũng phải được gửi đến tòa án đã ra bản án, quyết định bị kháng nghị, viện kiểm sát cùng cấp, và cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền. Ngoài ra, quyết định giám đốc thẩm sẽ được công bố trên cổng thông tin điện tử của tòa án có thẩm quyền, trừ khi quyết định đó chứa thông tin bảo mật quốc gia, thuần phong mỹ tục, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, hoặc thông tin cá nhân, gia đình theo yêu cầu hợp pháp của đương sự.
Trân trọng.