Bài viết được biên soạn từ chuyên mục tư vấn luật Dân sự của Mytour
1. Cơ sở pháp lý:
- Công ước Liên hiệp quốc về vận chuyển hàng hóa bằng đường biển năm 1978
2. Thông báo về mất mát, hư hỏng hoặc giao hàng chậm
2.1. Quy định về việc thông báo mất mát, hư hỏng hoặc giao hàng chậm
Điều 19 của Công ước Hamburg quy định về việc thông báo mất mát, hư hỏng hoặc giao hàng chậm như sau:
1. Trừ khi có thông báo về mất mát hoặc hư hỏng nói rõ tính chất chung của mất màt hoặc hư hỏng do người nhận hàng gửi cho người chuyên chở bằng văn bản không muộn hơn ngày làm việc sau ngày hàng được giao cho người nhận hàng, việc giao hàng hóa đó là bằng chứng hiển nhiên của việc người chuyên chở đã giao hàng hóa đúng như được mô tả trong chứng từ vận tải, hoặc đã giao hàng trong trạng thái tốt, nếu không có chứng từ vận tải đó.
2. Trong trường hợp mất mát hoặc hư hỏng khó thấy, thì những quy định trong mục 1 điều này được áp dụng tương ứng nếu không có thông báo bằng văn bản trong vòng 15 ngày liên tục tính từ ngày hàng được chuyển giao cho người nhận.
3. Nếu tình trạng hàng hóa vào lúc chuyển giao cho người nhận đã được kiểm tra hoặc giám định đối tịch giữa các bên, thì không cần phải có thông báo bằng văn bản về mất mát hoặc hư hỏng đã được xác định trong quá trình kiểm tra hoặc giám định đó.
4. Trong trường hợp có mất mát hoặc hư hỏng thực sự hoặc suy đoán, người chuyên chở và người nhận hàng phải dành cho nhau mọi điều kiện thuận tiện hợp lý để kiểm tra và kiểm đếm hàng hóa.
5. Thiệt hại do chậm giao hàng gây nên sẽ không được bồi thường nếu không có một thông báo bằng văn bản cho người chuyên chở trong vòng 60 ngày liên tục sau ngày hàng hóa được chuyển giao cho người nhận hàng.
6. Nếu hàng hóa do một người chuyên chở thực sự giao, thì mọi thông báo gửi cho người chuyên chở thực sự theo quy định của điều này cũng có hiệu lực như gửi cho người chuyên chở và mọi thông báo gửi cho người chuyên chở cũng có hiệu lực như gửi cho người chuyên chở thực sự.
7. Nếu trong vòng 90 ngày liên tục, tính từ ngày xảy ra mất mát, hư hỏng hoặc ngày giao hàng nói trong Điều IV (2), tùy theo ngày nào xảy ra sau, mà người chuyên chở hoặc người chuyên chở thực tế không gửi cho người gửi hàng bằng văn bản, thông báo về mất mát hoặc hư hỏng, xác định tính chất chung của mất mát và hư hỏng đó thì đó là bằng chứng hiển nhiên về việc người chuyên chở hoặc người chuyên chở thực tế không hề bị mất mát hoặc hư hỏng nào do lỗi hoặc sơ suất của người gửi nhân viên hay đại lý của người này gây ra.
8. Nhằm mục đích của điều này, thông báo gửi cho một người thay mặt người chuyên chở hoặc người chuyên chở thực tế kể cả thuyền trưởng và sĩ quan phụ trách tàu, hoặc gửi cho một người thay mặt người gửi hàng thì cũng coi như đã trao cho người chuyên chở, người chuyên chở thực tế hoặc người gửi hàng.
2.2. Giải thích về quy định thông báo mất mát, hư hỏng hoặc giao hàng chậm
Sự khác biệt là Điều 19 không chỉ quy định về việc thông báo của người nhận hàng gửi cho người chuyên chở về các tổn thất, hư hỏng hoặc giao hàng chậm (Điều 19.1 đến 6), mà còn đề cập đến thông báo của người chuyên chở gửi cho người nhận hàng về tổn thất hoặc hư hỏng hàng hóa (Điều 19.7). Theo Điều 19, việc giao hàng được coi là chứng cứ rõ ràng cho việc người chuyên chở đã hoàn tất giao hàng trong trạng thái tốt, trừ khi người nhận hàng gửi thông báo về tổn thất hoặc hư hỏng trong vòng một ngày làm việc kể từ ngày hàng hóa được giao. Thông báo này phải ghi nhận tình trạng tổng quát của tổn thất hoặc hư hỏng hàng hóa.
Điều 19.1 chỉ rõ rằng, thông báo phải được gửi bởi người gửi hàng. Thông báo này có thể được chuyển đến người chuyên chở (Khoản 1), người chuyên chở thực tế (Khoản 6), hoặc bất kỳ ai thay mặt họ, bao gồm thuyền trưởng và sĩ quan phụ trách tàu (Khoản 8).
Nếu tổn thất hoặc hư hỏng của hàng hóa khó nhận biết, Khoản 2 kéo dài thời gian gửi thông báo lên 15 ngày liên tiếp kể từ ngày giao hàng. Khoản 5 cũng quy định rằng thời hạn gửi thông báo là 60 ngày liên tiếp sau ngày giao hàng. Khoản 3 yêu cầu thông báo phải được lập bằng văn bản, trừ khi tình trạng của hàng hóa đã được kiểm tra hoặc giám định đối chiếu giữa các bên. Khoản 4 quy định cả hai bên phải tạo điều kiện thuận lợi hợp lý cho việc kiểm tra và kiểm đếm hàng hóa khi xảy ra tổn thất.
Khoản 7 yêu cầu người chuyên chở hoặc người chuyên chở thực tế, người chịu tổn thất hoặc hư hỏng hàng hóa có thể quy cho người gửi hàng, phải gửi một thông báo bằng văn bản cho người gửi hàng trong vòng 90 ngày liên tiếp kể từ ngày tổn thất hoặc hư hỏng xảy ra hoặc kể từ khi giao hàng cho người nhận hàng, tùy vào ngày nào đến sau. Việc không gửi thông báo này sẽ được coi là chứng cứ rõ ràng rằng người chuyên chở hoặc người chuyên chở thực tế không chịu tổn thất hoặc hư hỏng hàng hóa do lỗi hoặc sơ suất của người gửi hàng, nhân viên hoặc đại lý của họ. Nghĩa vụ này của người chuyên chở tương đương với nghĩa vụ gửi thông báo của người nhận hàng theo Khoản 1. Thuật ngữ "ngày liên tục" bao gồm cả ngày nghỉ và các ngày lễ quốc gia.
Khoản 8 quy định rằng thông báo có thể được gửi cho người đại diện của người chuyên chở, người chuyên chở thực tế, hoặc người gửi hàng, và thông báo gửi cho những người này được coi như đã gửi cho chính người chuyên chở, người chuyên chở thực tế, hoặc người gửi hàng.
Điều III.6 Quy tắc Hague quy định rằng thông báo phải được gửi cho người chuyên chở hoặc đại lý của họ tại cảng dỡ hàng, trước hoặc vào lúc giao hàng cho người có quyền tiếp nhận. Nếu tổn thất hoặc hư hỏng không rõ ràng, thông báo phải được gửi trong vòng ba ngày kể từ ngày giao hàng. Hậu quả của việc không gửi thông báo sẽ tương tự như quy định của Quy tắc Hamburg: là bằng chứng rõ ràng rằng hàng hóa đã được giao như mô tả trong vận đơn. Giống như trong Quy tắc Hamburg, không cần phải gửi thông báo nếu tổn thất đã được kiểm tra hoặc giám định đối chiếu giữa các bên.
Quy tắc Hague không đưa ra quy định nào về quyền của người chuyên chở trong việc gửi thông báo tổn thất cho người gửi hàng hoặc người nhận hàng. Quy tắc này chỉ quy định trách nhiệm của người gửi hàng đối với tổn thất gây ra bởi hàng hóa nguy hiểm, nhưng không đề cập đến tổn thất do hàng hóa không nguy hiểm gây ra.
Điểm khác biệt chính giữa hai Công ước, ngoài sự rõ ràng và trực tiếp hơn của Công ước Hamburg, là thời gian gửi thông báo tổn thất. Tại Hội nghị Hamburg, yêu cầu theo Điều 19.1 là thông báo tổn thất phải được gửi không muộn hơn một ngày làm việc sau khi giao hàng, điều này đã gây ra sự tranh cãi lớn. Tuy nhiên, yêu cầu này được cho là hợp lý hơn so với Quy tắc Hague, trong đó yêu cầu thông báo tổn thất phải được gửi ngay lập tức. Công ước Hamburg quy định thời hạn gửi thông báo dài hơn, điều này không gây phiền phức cho người chuyên chở, vì khi thông báo được gửi đi, nó chỉ đơn giản loại bỏ suy luận có lợi cho người chuyên chở rằng hàng hóa đã được giao trong tình trạng tốt.
Chế tài đối với việc gửi thông báo tổn thất muộn không quá nghiêm khắc và không thay đổi trách nhiệm chứng minh tổn thất xảy ra trong quá trình vận chuyển. Giống như Quy tắc Hague, Công ước Hamburg không giải quyết vấn đề này, mà để lại cho các hệ thống pháp luật quốc gia. Trong đa số các hệ thống pháp lý, người gửi hàng phải chứng minh tổn thất. Tuy nhiên, một số Công ước khác có chế tài nghiêm ngặt hơn (ví dụ: Điều 57 COTIF - Phụ lục CIM).
Cả hai Công ước đều có điểm chung là không yêu cầu gửi thông báo tổn thất, hư hỏng hoặc chậm giao hàng nếu hàng hóa không được giao cho người nhận. Trong trường hợp này, chỉ có các giới hạn khiếu nại của người nhận hàng được quy định tại Điều 20 của Quy tắc Hamburg và Điều IV bis của Quy tắc Hague.
3. Thời hiệu tố tụng liên quan đến chuyên chở hàng hóa theo Công ước Hamburg.
3.1. Quy định về thời hiệu tố tụng
Điều 20 của Công ước Hamburg quy định về thời hiệu tố tụng như sau:
1. Việc kiện tụng liên quan đến chuyên chở hàng hóa theo Công ước này đều hết hiệu lực nếu trong thời hạn hai năm không tiến hành các thủ tục đưa ra toà hoặc ra trọng tài.
2. Thời hiệu tố tụng bắt đầu tính từ ngày người chuyên chở đã giao toàn bộ hay một phần hàng hóa hoặc trong trường hợp không giao hàng thì tính từ ngày cuối cùng mà hàng hóa đáng lẽ ra phải được giao.
3. Ngày khởi đầu của kỳ hạn thời hiệu không tính vào thời hiệu tố tụng.
4. Người bị kiện có thể vào bất kỳ lúc nào của thời hiệu tố tụng, kéo dài kỳ hạn đó bằng một bản tuyên bố gửi cho người đi kiện. Kỳ hạn này có thể lại được kéo dài thêm bằng một hoặc nhiều bản tuyên bố khác.
5. Người chịu trách nhiệm bồi thường có thể kiện truy đòi bồi thường ngay cả sau khi hết kỳ hạn thời hiệu tố tụng quy định trong các mục trên, nếu đi kiện trong thời gian được phép theo luật của nước mà tại đó vụ kiện được tiến hành. Tuy nhiên, thời hạn được phép này không thể ít hon 90 ngày tĩnh tù ngày ngưài di kiện truy đòi bồi thường đã thanh toán tiền bồi thường hoặc đã nhận được thông báo về việc mình bị kiện.
3.2. Bình luận về quy định thời hiệu tố tụng
Khoản 1 và Khoản 2 của Điều 20 quy định rằng, việc khiếu nại liên quan đến chuyên chở hàng hóa bằng đường biển theo Quy tắc Hamburg sẽ bị mất hiệu lực nếu không tiến hành thủ tục tố tụng tại tòa án hoặc trọng tài trong vòng hai năm kể từ ngày hàng hóa được giao hoặc đáng lẽ ra phải được giao. Khoản 3 loại trừ ngày bắt đầu của thời gian này khỏi kỳ hạn tính.
Khoản 4 cho phép người bị kiện kéo dài thời gian khiếu nại trong suốt kỳ hạn bằng cách gửi thông báo bằng văn bản cho bên kiện. Tuy nhiên, theo Điều 7.1, thời hạn này áp dụng cho tất cả khiếu nại từ mọi bên, bất kể vụ kiện liên quan đến hợp đồng, ngoài hợp đồng hay bất kỳ cơ sở nào khác. Khoản 5 quy định rằng người có trách nhiệm bồi thường theo Quy tắc Hamburg sẽ có thêm một khoảng thời gian sau khi hết hạn hai năm để tiến hành khiếu nại truy đòi bồi thường từ những người khác có thể chịu trách nhiệm thay cho họ, nếu việc khiếu nại đó được thực hiện trong thời gian cho phép theo luật quốc gia nơi vụ kiện được xét xử.
Điều HI.6 của Quy tắc Hague quy định thời hiệu khiếu nại là một năm kể từ ngày hàng hóa được giao hoặc đáng lẽ ra phải được giao. Theo Quy tắc Hague - Visby, Điều VI bis cho phép việc khiếu nại đòi bồi thường đối với người thứ ba vẫn có thể được thực hiện sau thời hạn một năm, miễn là vụ kiện đó nằm trong thời gian được tòa án xử lý, và thời gian đó không được dưới ba tháng.
Thời hạn hai năm được quy định tại Hội nghị Hamburg đã giúp bảo vệ quyền lợi của người gửi hàng một cách tốt hơn, bởi vì thời gian một năm theo Quy tắc Hague thường xuyên không đủ và thực tế đã trở nên quá ngắn. Hội nghị Hamburg đã áp dụng thời gian này tương tự như một số Công ước vận tải khác cùng thời kỳ, chẳng hạn như Công ước Athens (Điều 16) và Công ước Vácsava (Điều 29), nhằm thống nhất các quy định và bảo vệ quyền lợi của người gửi hàng.
Quy tắc Hamburg còn cung cấp các quy định khác có liên quan.
Thứ nhất, thời hạn được quy định rõ ràng là áp dụng cho cả hai hình thức giải quyết tại Tòa án và Trọng tài. Điều này đã gây nhiều tranh cãi trong Quy tắc Hague về việc có áp dụng hay không thời gian luật định đối với thủ tục trọng tài.
Thứ hai, Điều 20 nêu rõ rằng thời hạn này không phải là một kỳ hạn pháp lý cố định mà chỉ là giới hạn thời gian, và vì vậy, nó có thể bị đình chỉ hoặc gián đoạn. Quy tắc Hague không quy định rõ về việc luật quốc gia có áp dụng trong trường hợp kỳ hạn phụ thuộc vào sự đình chỉ hoặc gián đoạn hay không.
Mặc dù vậy, tại Hội nghị Hamburg, không có sự thống nhất về việc đưa ra một quy định rõ ràng về sự đình chỉ hoặc gián đoạn trong thời hạn, tuy nhiên điều này không phải là vấn đề đáng lo ngại. Thực tế, phần lớn các tình huống gia hạn thời hạn đều phụ thuộc vào sự đồng thuận của người bị kiện, điều này đã được quy định rõ ràng tại Điều 20.4.
Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác từ quý vị!
Trân trọng cảm ơn./.
Mytour - Sưu tầm & biên tập