1. Hàng hóa luân chuyển là gì?
Hàng hóa luân chuyển là quá trình di chuyển hàng hóa từ nơi này sang nơi khác, sử dụng sức người hoặc phương tiện vận chuyển, nhằm thực hiện các giao dịch thương mại như mua bán, lưu kho, hoặc dự trữ trong chuỗi sản xuất – kinh doanh.
Hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất và kinh doanh có thể bao gồm hàng hóa trong kho hoặc những hàng hóa đang tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Khi dùng hàng hóa luân chuyển làm tài sản cầm cố, đặt cọc, hay ký cược, thì các thủ tục này diễn ra tương tự như đối với các động sản thông thường khác. Tuy nhiên, trong trường hợp thế chấp, ngoài những quy định chung áp dụng cho tài sản thế chấp, còn có một số quy định đặc thù đối với hàng hóa luân chuyển. Cụ thể, bên thế chấp có quyền bán, thay thế, hoặc trao đổi tài sản thế chấp khi tài sản đó là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất và kinh doanh.
2. Tổng quan về thế chấp hàng hóa luân chuyển
Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định rằng, khi tài sản thế chấp là kho hàng, bên thế chấp có quyền thay thế hàng hóa trong kho, nhưng phải đảm bảo giá trị của hàng hóa trong kho như đã thỏa thuận. Trên thực tế, bên nhận thế chấp hàng hóa luân chuyển, không phân biệt hàng hóa có ở trong kho hay không, thường yêu cầu bên thế chấp bảo đảm số lượng và giá trị của hàng hóa đúng theo thỏa thuận khi bán hoặc thay thế hàng hóa. Họ chỉ được phép thực hiện việc bán hoặc thay đổi khi có sự đồng ý của bên nhận thế chấp. Tuy nhiên, thực tế bên thế chấp có thể bán hoặc thay đổi tài sản bất kỳ lúc nào mà không cần sự đồng ý của bên nhận thế chấp. Trường hợp này chỉ vi phạm thỏa thuận hợp đồng mà không vi phạm điều cấm của pháp luật. Do đó, giao dịch này có thể sai trái nhưng không bị coi là vô hiệu.
Khi bên thế chấp bán hàng hóa luân chuyển, quyền yêu cầu thanh toán từ bên mua, bao gồm số tiền thu được, tài sản hình thành từ số tiền đó, cũng như các tài sản thay thế hoặc trao đổi, sẽ trở thành tài sản thế chấp.
Các quy định nêu trên cho phép bên thế chấp bán tài sản thế chấp và loại trừ quyền của bên nhận thế chấp đối với việc thu hồi tài sản đã đăng ký thế chấp hợp pháp, ngay cả khi việc bán đó vi phạm thỏa thuận giữa các bên. Điều này có nghĩa là bên mua tài sản thế chấp là hàng hóa luân chuyển luôn được bảo vệ, bất kể có ngay tình hay không và dù giao dịch thế chấp có được công chứng, chứng thực và đăng ký hay không. Các quy định này mặc nhiên phủ nhận ý chí thỏa thuận của các bên và gián tiếp làm mất tác dụng của việc đăng ký thế chấp đối với tài sản là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh.
Trong thực tế, để phòng ngừa rủi ro thường gặp, bên nhận thế chấp phải áp dụng các biện pháp ràng buộc bổ sung. Ví dụ, mặc dù về hình thức pháp lý là hợp đồng thế chấp hàng hóa, nhưng nội dung của hợp đồng lại có nhiều điểm tương đồng với hợp đồng cầm cố. Một số trường hợp, bên thế chấp không giao hàng hóa cho bên nhận thế chấp mà giao cho một bên thứ ba quản lý theo chỉ định của bên nhận thế chấp. Ngoài ra, hàng hóa thế chấp có thể vẫn được lưu giữ trong kho của bên thế chấp, nhưng bên nhận thế chấp lại có quyền giữ chìa khóa và bố trí bảo vệ cho kho hàng.
Theo quy định tại Luật Thương mại năm 2005, nếu hàng hóa được bán là tài sản bảo đảm nghĩa vụ dân sự, bên bán phải thông báo cho bên mua về biện pháp bảo đảm này và phải được sự đồng ý của bên nhận bảo đảm trước khi tiến hành bán hàng hóa.
Nghị định số 21/2021/NĐ-CP quy định rằng, hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh và kho hàng dùng để bảo đảm nghĩa vụ có thể được mô tả theo giá trị tài sản hoặc theo loại hàng hóa. Đối với kho hàng, mô tả phải bao gồm địa chỉ, số hiệu kho (nếu có) hoặc các dấu hiệu khác xác định vị trí của kho. Hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh có thể là hàng hóa trong kho hoặc hàng hóa đang tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh.
3. Hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh và kho hàng
Hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh và kho hàng được sử dụng để bảo đảm nghĩa vụ có thể được mô tả theo giá trị của tài sản hoặc theo loại hàng hóa. Đặc biệt, đối với kho hàng, mô tả tài sản bảo đảm còn cần chỉ rõ địa chỉ, số hiệu kho (nếu có) hoặc các dấu hiệu nhận diện vị trí kho.
Hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh có thể là hàng hóa lưu trữ trong kho hoặc hàng hóa đang tham gia vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
4. Thế chấp hàng hóa luân chuyển
Theo Điều 206 của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015, được sửa đổi, bổ sung vào năm 2017, hành vi vi phạm quy định về điều kiện cấp tín dụng có thể bị phạt tù từ 6 tháng đến 20 năm, kèm theo hình phạt bổ sung là cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 đến 5 năm, tùy theo mức độ thiệt hại về tài sản. Việc nhận tài sản bảo đảm là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh mà không tuân thủ đúng quy định có thể bị coi là vi phạm quy định pháp luật về tín dụng.
Trường hợp có tố cáo từ bên thứ ba hoặc yêu cầu thanh tra từ cơ quan Ngân hàng Nhà nước liên quan đến khoản vay bảo đảm bằng hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh, ngân hàng sẽ luôn là đối tượng đầu tiên bị cơ quan điều tra xem xét trách nhiệm. Cơ quan điều tra thường yêu cầu ngân hàng cung cấp các quy định nội bộ về cho vay và nhận tài sản bảo đảm, các tài liệu liên quan đến hồ sơ vay, hồ sơ tài sản bảo đảm như tờ trình thẩm định khoản vay, thẩm định tài sản bảo đảm, hồ sơ định giá tài sản bảo đảm và hồ sơ phê duyệt tín dụng.
Cơ quan điều tra thường sẽ kiểm tra xem khi nhận tài sản là hàng hóa luân chuyển, số lượng và giá trị của tài sản có đầy đủ và đúng chất lượng hay không. Trước đó, họ đã tiến hành lấy lời khai của bị can (khách hàng, bên bảo đảm) liên quan đến việc thẩm định và tiếp nhận tài sản bảo đảm từ phía cán bộ tín dụng. Nếu phát hiện sự chênh lệch, cán bộ tín dụng có thể bị coi là vi phạm quy định về điều kiện cấp tín dụng.
Cán bộ tín dụng sẽ đối mặt với rủi ro lớn nếu cho vay mà không cẩn thận khi nhận tài sản bảo đảm là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh, đặc biệt khi không hiểu rõ đặc điểm của loại hàng hóa này.
Khi các ngân hàng nhận thế chấp hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là các nông sản như cà phê, gạo, sắn lát... thì khối lượng thường rất lớn, từ vài trăm đến vài ngàn tấn. Do đó, việc kiểm tra và đo đếm số lượng hàng hóa trong kho là vô cùng khó khăn. Công tác này, cùng với việc đánh giá chất lượng của khối lượng hàng hóa lớn, không hề đơn giản và không khả thi về mặt kinh tế, bởi thời gian, chi phí và nguy cơ hư hỏng hàng hóa trong quá trình kiểm đếm. Việc xác định chất lượng hàng hóa thường chỉ có thể thực hiện thông qua thẩm định ngẫu nhiên một số lô hàng hoặc bao hàng.
Vì lý do này, khi một vụ án liên quan đến vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng bị khởi tố, cán bộ tín dụng có thể bị khởi tố hoặc trở thành đồng phạm nếu cơ quan điều tra phát hiện lượng hàng hóa trong kho ngay từ đầu đã bị thiếu hụt hoặc không đạt chất lượng, giá trị như đã thỏa thuận trong hợp đồng thế chấp và hồ sơ tài sản bảo đảm.
Đôi khi, cán bộ tín dụng không cố ý vi phạm, nhưng vì áp lực chỉ tiêu cho vay và thiếu hiểu biết về loại hàng hóa, họ có thể không thực hiện việc kiểm tra và đo đếm hàng hóa một cách đầy đủ.
Theo Bộ luật Dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành về giao dịch bảo đảm, không yêu cầu ngân hàng phải đảm bảo rằng số lượng và giá trị hàng hóa trong hợp đồng thế chấp phải trùng khớp với số lượng và giá trị hàng hóa thực tế được thế chấp. Nếu có sự chênh lệch giữa các con số này, ngân hàng sẽ chịu rủi ro về mặt thương mại, giống như trong bất kỳ giao dịch bảo đảm nào khác, ví dụ như khi tài sản là nhà ở nhưng bị định giá sai so với giá trị thực tế. Các quy định nội bộ của ngân hàng có thể yêu cầu điều này, nhưng rõ ràng chúng không phải là văn bản pháp luật.
Theo Điểm d, Khoản 2, Điều 22, Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng (Thông tư 39), ngân hàng phải có nội dung trong quy định nội bộ về cho vay liên quan đến “việc quản lý, giám sát và theo dõi tài sản bảo đảm tiền vay, phù hợp với biện pháp bảo đảm, đặc điểm của tài sản bảo đảm và khách hàng”. Điều này ngầm định ngân hàng có nghĩa vụ quản lý, giám sát và theo dõi tài sản thế chấp, chủ yếu là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh do tính chất đặc biệt của loại tài sản này.
Điều này trái ngược với tinh thần chung của pháp luật về giao dịch bảo đảm. Cụ thể, Khoản 2, Điều 320 Bộ luật Dân sự quy định bên thế chấp có nghĩa vụ “bảo quản, giữ gìn tài sản thế chấp”, trong khi Khoản 1, Điều 323 Bộ luật Dân sự nêu rõ rằng ngân hàng có quyền “xem xét, kiểm tra trực tiếp tài sản thế chấp”. Như vậy, ngân hàng chỉ có quyền chứ không phải nghĩa vụ giám sát, kiểm tra tài sản thế chấp trong suốt thời gian hợp đồng thế chấp có hiệu lực. Pháp luật về giao dịch bảo đảm không yêu cầu ngân hàng phải giám sát hay quản lý tài sản bảo đảm.
Cần lưu ý rằng nghĩa vụ quản lý, giám sát và theo dõi tài sản thế chấp của ngân hàng theo Thông tư 39 chỉ phát sinh sau khi hợp đồng thế chấp đã được xác lập. Việc vi phạm nghĩa vụ này không thể coi là vi phạm quy định pháp luật về điều kiện cấp tín dụng trong Bộ luật Hình sự, vì các công việc này diễn ra sau khi hợp đồng vay và hợp đồng thế chấp đã được ký kết. Điều này giúp giảm bớt những lo lắng của cán bộ ngân hàng khi tiếp nhận thế chấp loại tài sản đặc biệt này.