Sau đó, bác tôi đã trốn quân dịch và cư trú tại nơi khác, lập gia đình thêm một lần nữa và có ba con trai. Vợ bác tôi cùng hai con ở lại ngôi nhà, nhưng đến năm 1980, bà cũng rời đi để làm ăn xa. Sau một thời gian, bác tôi trở lại thăm nhà, tuy nhiên ngôi nhà đã xuống cấp nghiêm trọng. Vì vậy, bác tôi đã mời tôi vào để sinh sống và thờ cúng tổ tiên, vì đây là nhà thờ của gia đình. Trong suốt thời gian sinh sống tại đây, vợ chồng tôi đã tu sửa, cải tạo ngôi nhà nhiều lần. Năm 1996, bác tôi đã viết giấy chuyển nhượng thừa kế ngôi nhà cho tôi, có xác nhận của Ủy ban phường. Lúc này, ngôi nhà vẫn được đăng ký là nhà thờ, và tôi đã tiến hành thủ tục sang tên sở hữu ngôi nhà. Đến năm 2006, vợ chồng tôi đã được cấp sổ đỏ. Năm 2013, một gia đình giàu có đề nghị đổi ngôi nhà của tôi với ngôi nhà một tầng của họ cộng thêm 400 triệu đồng. Vì lý do tài chính khó khăn và không có chỗ thờ cúng, tôi đã thảo luận với các thành viên trong gia đình và quyết định đồng ý. Tuy nhiên, sau đó, con trai của vợ bác tôi yêu cầu tôi phải trả 200 triệu đồng, cho rằng đây là nhà của cha mẹ anh ta. Tôi đã đồng ý và trả số tiền này tại phiên hòa giải ở UB phường. Nhưng sau đó, anh ta lại thay đổi yêu cầu, muốn lấy lại toàn bộ ngôi nhà của tôi, và đã nộp đơn kiện nhằm đòi lại tài sản.
Trong đơn kiện, anh ta yêu cầu 'đòi lại nhà và đất để ở nhờ'. Tuy nhiên, trong buổi hòa giải, anh ta đã thông báo rằng mẹ anh bị tai biến và nằm liệt giường, rồi qua đời ít tháng sau đó, vào năm 2014. Năm 2015, Tòa án nhân dân thành phố Hội An đã chấp nhận đơn kiện và xác nhận rằng gia đình tôi đã vào ở vào năm 1990, thay vì năm 1978 như xác nhận của phường và người dân địa phương. Tòa án phán quyết rằng tôi phải trả lại ngôi nhà cho mẹ con anh ta, và mẹ con anh ta phải trả cho tôi số tiền 700 triệu đồng, tương ứng với việc tu sửa và duy trì nhà cửa trong suốt thời gian chúng tôi sinh sống. Tuy nhiên, vì gia đình tôi không có chỗ ở, chúng tôi được phép tiếp tục ở lại ngôi nhà nhưng phải trả lại số tiền 732 triệu đồng (do giá trị nhà được định giá là 1 tỷ 432 triệu đồng). Chúng tôi không đồng ý với quyết định này và đã kháng cáo. Anh ta cũng kháng cáo lại bản án. Sau hai tháng, Tòa án phúc thẩm đưa ra phán quyết tồi tệ hơn đối với gia đình tôi, buộc chúng tôi phải trả nhà và chỉ nhận 400 triệu đồng. Gia đình tôi cùng những người trong cộng đồng địa phương rất bức xúc vì cho rằng phán quyết này không đúng với pháp luật.
Xin hỏi quý anh chị, phán quyết của tòa án như vậy có đúng pháp luật không? Chúng tôi mong nhận được sự giúp đỡ và chỉ dẫn từ quý cấp để bảo vệ quyền lợi của gia đình, giúp chúng tôi giữ được ngôi nhà của mình, vì chúng tôi cảm thấy rất bất công trong trường hợp này.
Xin chân thành cảm ơn quý vị!
Người gửi: L.Q.
Trả lời:
Chào bạn! Cảm ơn bạn đã tin tưởng và lựa chọn Mytour. Đối với vấn đề bạn gặp phải, chúng tôi xin được giải đáp như sau:
1. Cơ sở pháp lý:
Bộ luật dân sự 2005
Bộ luật dân sự năm 2015
Bộ luật tố tụng dân sự 2004, sửa đổi 2011
2. Nội dung phân tích:
Theo trường hợp của bạn, hai vợ chồng bác bạn đã kết hôn từ năm 1951. Lúc này, các quy định về chế độ tài sản vợ chồng theo các sắc lệnh về hôn nhân quy định như sau: "Vợ chồng có quan hệ tài sản chung tuyệt đối: tất cả tài sản có trước và sau khi kết hôn đều là tài sản chung". Do đó, ngôi nhà thuộc sở hữu chung của vợ chồng bác bạn, không phải của riêng bác bạn, và việc chuyển nhượng cho gia đình bạn không có cơ sở pháp lý.
Trong trường hợp này, bạn có thể trở thành người chiếm hữu ngay tình liên tục nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện được quy định tại Điều 189 của Bộ luật dân sự 2005.
Điều 189. Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình
Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại Điều 183 của Bộ luật này là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
Người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là người chiếm hữu mà không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 247 Bộ luật dân sự, căn cứ xác định quyền sở hữu theo thời hiệu được quy định như sau:
Điều 247. Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu
1. Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
Tính đến thời điểm hiện tại, thời gian bạn đã chiếm hữu ngay tình bất động sản đó vẫn chưa đủ 30 năm. Do đó, tài sản này vẫn chưa thuộc quyền sở hữu của bạn.
Khoản 2, Điều 391 của Bộ luật tố tụng dân sự quy định như sau:
Điều 391. Quyết định, hành vi trong tố tụng dân sự có thể bị khiếu nại
2. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của Toà án và các quyết định tố tụng khác do người tiến hành tố tụng dân sự ban hành, nếu có kháng cáo, kháng nghị, khiếu nại, kiến nghị thì không giải quyết theo quy định của Chương này mà được giải quyết theo quy định của các chương tương ứng của Bộ luật này
Điều 283 của Bộ luật tố tụng dân sự quy định rằng...
Điều 283. Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:
1. Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;
2. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng;
3. Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.
Nếu bạn nhận thấy bản án phúc thẩm xét xử vụ việc của bạn có bất kỳ căn cứ nào như đã nêu, bạn có thể gửi đơn khiếu nại yêu cầu kháng nghị giám đốc thẩm trong vòng ba năm kể từ ngày tòa phúc thẩm ra quyết định. Đối với trường hợp của bạn, vì là bản án phúc thẩm, đơn khiếu nại cần được gửi tới Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
Dưới đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi đối với câu hỏi của quý khách. Ý kiến này được đưa ra dựa trên các quy định pháp luật hiện hành và thông tin do quý khách cung cấp. Mục đích của tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo.
Trân trọng.